Phân tích bài thơ Viếng Lăng Bác tác giả Viễn Phương – HOCMAI

0
54261
phan-tich-bai-tho-vieng-lan-bac-ava

Kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 đang rất gần. Đây là thời gian vàng để các bạn học sinh ôn luyện các kiến thức về các tác phẩm văn học trong chương trình Ngữ Văn lớp 9. Trong bài viết này, cùng HOCMAI phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của tác giả Viễn Phương

I. Thông tin về tác giả – tác phẩm

1. Tác giả: Viễn Phương

– Tên thật: Phan Thanh Viễn (bút danh: VIễn Phương, Đoàn Viễn)

– Sinh năm 1928 mất năm 2005 tại TP.HCM

– Quê quán: xã Tân Châu, tỉnh An Giang

– Viễn Phương là một trong những gương mặt nhà thơ tiêu biểu trong lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam

– Năm 2001, Viễn Phương được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật 

– Trong 30 năm tham gia chiến đấu vì độc lập tự do của dân tộc, Viễn Phương đã có những cống hiến cho sự nghiệp cách mạng

– Truyện ngắn và thơ là hai thể loại sở trường trong sáng tác của Viễn Phương. Trong đó thơ là thể loại giúp ông đạt được nhiều thành công nhất trong con đường nghệ thuật. Ngoài ra, các tác phẩm thuộc thể loại ký của ông cũng được đánh giá rất cao

Những tác phẩm tiêu biểu: 

Quê hương địa đạo, Lòng mẹ, Thơ với tuổi thơ, Ngàn say mây trắng, Miền sông nước, Tháng bảy mưa ngâu, Đá hoa cương, Sắc lụa Trữ La, Phù sa quê mẹ, Hình bóng thương yêu,Gió lay hương quỳnh, Ngôi sao xanh, …

Cảm hứng sáng tác và phong cách thơ:

– Trong các tác phẩm của mình, Viễn Phương chủ yếu tập trung khám phá, ca ngợi vẻ đẹp của  đất nước, con người trong những cuộc chiến đấu trường kỳ và đầy gian khổ của dân tộc.

– Trong giới nghệ thuật, thơ Viễn Phương được đánh giá là nền nã, man mác, có sự day dứt mà không hề cầu kỳ, kênh kiệu, khoa ngôn. Thơ của ông chính là tấm gương phản chiếu những gì nhìn thấy trong đời sống của ông

– Phong cách thơ: giàu cảm xúc, sâu lắng, tha thiết; giọng thơ nhỏ nhẹ, trong sáng như đang thầm thì; ngôn ngữ thơ đậm đà bản sắc dân tộc

phan-tich-bai-tho-vieng-lan-bac-1

2. Tác phẩm Viếng Lăng Bác

a. Hoàn cảnh ra đời “Viếng Lăng Bác”

– Bài thơ được in trong tập thơ “Như mây mùa xuân”, xuất bản năm 1978

– Bài thơ “Viếng lăng Bác” được sáng tác vào tháng 4 năm 1976, một năm sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc thắng lợi, miền Nam giải phóng, đất nước thống nhất. Năm 1976 cũng là thời điểm công trình lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh khánh thành. Viễn Phương trên danh nghĩa là một trong số ít đồng bào chiến sĩ miền Nam đã có cơ hội viếng thăm lăng Bác. Bài thơ là những cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước lăng của Hồ Chủ tịch. Đó là những xúc động thiêng liêng, sự thành kính và lòng biết ơn vô hạn của Viễn Phương dành cho “vị cha già của dân tộc”

b. Giọng thơ

Cả bài thơ toát lên sự thành kính, trang nghiêm, nhẹ nhàng, trầm lắng, tương tự với tâm trạng của tác giả và không khí trong ngày viếng lăng Bác

c. Bố cục nội dung

Bài thơ bao gồm 4 khổ tương ứng với 4 nội dung chính, cụ thể:

– Khổ 1 (phần đầu): Cảm xúc của tác giả khi lần đầu đứng trước lăng Bác

– Khổ 2 (phần hai): Tâm trạng, cảm xúc của tác giả khi chứng kiến dòng người vào viếng lăng Bác

– Khố 3 (phần ba): Cảm xúc của tác giả khi vào trong lăng và nhìn thấy Bác

– Khổ 4 (phần cuối): Cảm xúc của tác giả khi hoàn thành chuyến viếng lăng Bác và nói lời tạm biệt

II. Phân tích bài thơ Viếng Lăng Bác Ngữ Văn 9

1. Phân tích khổ thơ 1 tác phẩm Viếng lăng Bác: Cảm xúc của tác giả khi lần đầu đứng trước lăng Bác 

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng”

Viễn Phương vốn là một người con miền Nam, từng tham gia chiến đấu nơi chiến trường Nam Bộ xa xôi. Cũng như bao đồng bào và chiến sĩ miền Nam khác, Viễn Phương luôn mong mỏi một ngày được ra thăm Bác. Vì vậy, khi đứng trước lăng Hồ Chủ tịch, đặc biệt sau khi miền Nam giải phóng, thống nhất đất nước, nhà thơ đã không giấu nổi sự xúc động

Cảm xúc bồi hồi xen lẫn sự xúc động sâu xa thể hiện ngay trong câu thơ đầu tiên:

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”

– Sử dụng ngôn từ giản dị, câu thơ như một lời trần thuật, thông báo ngắn gọn: tác giả từ miền Nam, nơi tuyến đầu chống dịch của Tổ quốc, sau bao nhiêu năm mong mỏi nay cũng được về thăm Bác, vào đúng thời điểm lăng Bác vừa khánh thành.

Nét đặc sắc trong việc tác giả sử dụng đại từ nhân xưng thân tình “Con – Bác”: 

– Đây là lối nói đặc trưng người miền Nam: thể hiện tình cảm mà tác giả dành cho Bác mang một sự gần gũi, thân thiết, như mối quan hệ giữa hai người thân ruột thịt

– Đại từ nhân xưng thân tình còn thể hiện được lòng tôn kính và tình cảm yêu thương ruột thịt.

– Tạo cảm giác như một đứa con xa nhà, nay mới được trở về bên vị cha già kính yêu của dân tộc

Sử dụng biện pháp nghệ thuật tu từ nói giảm, nói tránh khi qua từ “thăm” để thay cho từ “viếng”

– Hai từ tuy biểu thị cùng một hoạt động nhưng với từ “thăm”, tác giả muốn dùng nhằm giảm bớt nỗi đau thương, mất mát khi những đứa con từ miền Nam chỉ còn được gặp Bác trong Lăng

– Từ ngữ nhằm giảm bớt sự tiếc nuối của tác giả khi Bác đã không thể cùng nhân dân, đặc biệt là những người con Miền Nam, cùng đón nền hòa bình độc lập dân tộc mà Bác đã cống hiến cả đời để thực hiện hóa

– Nghệ thuật dùng từ khai thác hình tượng bất tử của Bác không chỉ trong lòng những người con miền Nam mà còn đối với cả dân tộc Việt Nam.

=> Câu thơ đầu tiên với sự giản dị như một lời kể, đã bộc lộ tình cảm bao lâu nay của người con miền Nam, sau bao đợi chờ cuối cùng cũng được về thăm Người

Khi đứng trước lăng Chủ tịch kính yêu, tác giả đã viết về ấn tượng đầu tiên về hàng tre xanh mát trong 3 câu thơ tiếp theo:

“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát 

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam 

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”

– Sử dụng từ cảm thán “Ôi!”, tác giả đã biểu thị niềm xúc động, niềm tự hào trước hình ảnh hàng tre đứng quanh lăng Bác

Hình ảnh “hàng tre bát ngát” vừa có ý nghĩa là hình ảnh tả thực về quang cảnh tác giả đã nhìn thấy quanh lăng Bác, vừa liên tưởng đến những xóm làng Việt Nam với sự gần gũi, thân thương

Nghệ thuật ẩn dụ trong hình ảnh “hàng tre xanh xanh Việt Nam” mang ý nghĩa tượng trưng:

– Tre vốn là loài cây thường xuyên xuất hiện trong các câu chuyện dân gian Việt Nam. Sức sống tràn trề của tre tượng trưng cho những con người Việt Nam trong chiến tranh, mạnh mẽ và kiên cường

– “Hàng tre” mà tác giả miêu tả gợi hình ảnh một quân đội hùng tráng với tinh thần kiên cường, bất khuất. Dù trong “bão táp mưa sa”, “hàng tre” ấy vẫn đứng bên cạnh canh giữ cho giấc ngủ ngàn thu của Người

– Sử dụng thành ngữ “bão táp mưa sa” gắn với “hàng tre”, tác giả đang tự mình nhớ về những khó khăn, gian khổ mà đất nước, nhân dân ta đã cùng nhau trải qua. Trong những cuộc chiến khắc nghiệt ấy, dân ta đã phải “chung lưng, đấu cật” để mang lại hòa bình độc lập như ngày hôm nay

– Cách miêu tả hình ảnh hàng tre qua cụm từ “đứng thẳng hàng” đã đem lại cho người đọc hình dung về dáng dấp cứng cỏi, hiên ngang, kiên cường, bất khuất, đúng như tính cách vốn có của người dân Việt Nam

=> Khổ thơ đầu diễn tả niềm xúc động sâu sắc, niềm tự hào, thành kính của tác giả khi có dịp đến thăm và đứng trước lăng Bác sau bao ngày tháng mong mỏi

2. Phân tích khổ thơ 2 bài thơ Viếng Lăng Bác Ngữ Văn 9: Tâm trạng, cảm xúc của tác giả khi chứng kiến dòng người vào viếng lăng Bác

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…”

4 câu thơ là hình ảnh của dòng người vào viếng lăng Bác với nỗi tiếc thương và lòng biết ơn vô hạn.

Tác dụng của nghệ thuật sóng đôi giữa hai hình ảnh “mặt trời” của thiên nhiên và “mặt trời” ẩn dụ:

– Trong câu thơ “Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng” mặt trời chính là hình ảnh tả thực. Đây là mặt trời của mẹ thiên nhiên, mặt trời mà chúng ta thường biết đến, giúp sưởi ấm, soi sáng không gian vũ trụ và mang lại sự sống cho vạn vật

– Trong câu thơ “Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ” mặt trời là hình ảnh ẩn dụ về Bác Hồ. Đối với nhân dân Việt Nam, Bác chính là mặt trời chân lí, giúp sưởi ấm và soi sáng cho dân tộc thoát khỏi kiếp nô lệ, thoát khỏi chiến tranh và có một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. 

– Hình ảnh ẩn dụ mặt trời cho thấy tấm lòng thành kính, lòng biết ơn sâu sắc mà tác giả cũng như người dân cả nước đang và sẽ mãi dành cho Bác

– Sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hóa với hai hành động ngày ngày “đi qua trên lăng” và thấy trong lăng có một mặt trời “rất đỏ” có tác dụng tô đậm tầm vóc vĩ đại của Người trong mắt những người con xa xứ như Viễn Phương

– Sử dụng chi tiết đặc tả “rất đỏ”, tác giả đã tô đậm vẻ đẹp trong trái tim đầy nhiệt huyết vì Tổ quốc, vì nhân dân của Bác. Tuy Bác đã mất nhưng trái tim ấy cùng với lòng yêu nước nồng nàn sẽ mãi sáng chói như mặt trời, sẽ soi sáng cho dân tộc từ nay về sau

Hình ảnh “dòng người” kết hợp với điệp từ “ngày ngày”:

– Sử dụng điệp ngữ “ngày ngày”: chỉ dòng thời gian vô tận giống như tấm lòng của người dân chưa bao giờ nguôi nỗi nhớ về Bác; mang nỗi tiếc thương vô hạn trước thời khắc tiến vào lăng Bác

– “Dòng người” là từ mang giá trị tạo hình, thể hiện quang cảnh nhiều đoàn người nối hàng dài vào lăng để viếng Bác. Có thể thấy, tình thương mà người dân dành cho Bác là vô cùng lớn, đến mức họ chấp nhận xếp thành từng hàng chỉ để được vào nhìn Bác, gặp Bác ít nhất 1 lần trong đời

– Sử dụng hình ảnh “tràng hoa” để ẩn dụ cho những đoàn người, cho ta thấy khung cảnh “dòng người” đông như kết lại thành hàng vạn trái tim, thành một “tràng hoa” với tấm lòng thương xót, thành kính dâng lên Bác

– Sử dụng hình ảnh hoán dụ “bảy mươi chín mùa xuân”, tác giả muốn nhắc đến 79 năm trong cuộc đời của Bác, ứng với 79 mùa xuân mà Bác đã hi sinh cho độc lập tự do của toàn dân tộc

=> Khổ thơ thứ hai đã lột tả được một cách rõ nét tấm lòng tiếc thương của nhân dân cả nước dành cho “vị Cha già kính yêu” của dân tộc. Tuy đã ra đi nhưng trái tim và sự hi sinh của Người sẽ luôn sống và được nhân dân khắc ghi ngàn đời sau.

 Tham khảo thêm: Soạn văn 9

3. Phân tích khổ thơ 3 : Cảm xúc của tác giả khi vào trong lăng và nhìn thấy Bác

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim”

Khi vào đến trong lăng, thời gian như ngưng đọng trong không khí yên bình, trang nghiêm cùng ánh sáng dịu nhẹ, trong trẻo của không gian bên trong lăng Bác:

“Bác nằm trong lăng giấc ngủ bình yên 

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền.”

– Sử dụng biện pháp nghệ thuật nói giảm “giấc ngủ” để miêu tả hình ảnh Bác nằm trong lăng. Tác giả dường như đang muốn phủ nhận sự thật đau lòng rằng Bác đã mất. Tuy nhiên trong mắt tác giả, Bác như chỉ đang ngủ một giấc bình yên vì sau bao năm cống hiến, hi sinh vì đất nước, nay ngày độc lập tự do đã đến, mong ước cả cuộc đời của Bác đã được toại nguyện

Sử dụng hình ảnh “vầng trăng sáng dịu hiền” mang nhiều ý nghĩa ẩn dụ:

– HÌnh ảnh “vầng trăng sáng” như đại diện cho tâm hồn, phong cách sống thanh tao, cao đẹp của Bác trong suốt cuộc đời

– Cách tác giả đưa hình ảnh “vầng trăng” đã bộc lộ tấm lòng biết ơn sâu sắc dành cho Bác, với tư cách là một người con miền Nam 

– Hồ Chí Minh vốn nổi tiếng với các tập thơ viết về ánh trăng, việc sử dụng hình ảnh “vầng trăng” như một cách tác giả gửi lời tri ân đến những tác phẩm thơ ca của Bác, dưới danh nghĩa là một nhà thơ, từng trưởng thành trong chiến tranh 

Sử dụng hình ảnh ẩn dụ sâu xa “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi” để thể hiện tâm trạng xúc động của nhà thơ 

– “Trời xanh” trong lớp nghĩa đầu tiên được hiểu là thiên nhiên, là bầu trời thân thuộc của chúng ta. Một bầu trời bao la rộng lớn, cùng với “mặt trời”, tồn tại vĩnh hằng theo thời gian

– “Trời xanh” trong lớp nghĩa thứ hai mang nghĩa ẩn dụ sâu xa về hình ảnh Bác. Trong mắt người dân Việt Nam, Bác sẽ gắn bó mãi với non sông đất nước, với tình yêu nước lan tỏa đến toàn dân, như “trời xanh” vĩnh hằng và ánh sáng “mặt trời” không bao giờ tắt

Tuy đã coi hình bóng của Bác sẽ sống mãi theo thời gian nhưng nhân dân vẫn không thể tránh khỏi tâm trạng đau xót và nuối tiếc trước sự ra đi của Bác. Niềm tiếc nuối ấy được thể hiện rõ nhất qua câu thơ: 

“Mà sao nghe nhói ở trong tim”

– Sử dụng từ biểu cảm trực tiếp: “Nhói”, tác giả đã biểu hiện một nỗi đau đột ngột, quặn thắt. Đây không phải sự mất mát thông thường mà là nỗi đau tận đáy sâu trong tâm hồn của một người con xa xứ, một nỗi đau đầy uất nghẹn đến nỗi không nói thành lời. Tất cả những gì mà tác giả có thể miêu tả về sự mất mát ấy chính là “nhói” – sự nhức nhối, cơn đau quặn đến từ bên trong mà khó có thể ngừng lại

– Tác giả sử dụng cặp quan hệ từ “vẫn” và “mà” để diễn tả sự mâu thuẫn. Sự mâu thuẫn giữa cảm giác “nhói” với sự thật “trời xanh là mãi mãi”. Đó là mâu thuẫn giữa tình cảm và lý trí. Con người tuy biết được sự thật nhưng đứng trước khoảnh khắc thiêng liêng, vẫn không thể thoát khỏi phút yếu lòng

=> Cảm xúc trong 4 câu thơ này là đỉnh điểm của nỗi nhớ thương, của niềm đau xót khi đứng trước di hài của Bác. Và đó cũng là nguyên nhân dẫn đến khát vọng của tác giả trong khổ cuối của bài thơ

4. Phân tích khổ thơ 4: Cảm xúc của tác giả sau khi hoàn thành chuyến thăm lăng Bác và nói lời tạm biệt

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”

Sau khi được gặp Bác đúng như ý nguyện, tác giả dường như không muốn rời xa Bác. Nỗi đau mất mát cùng những giọt nước mắt đầy lưu luyến đã được diễn tả qua câu thơ:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”

Sử dụng từ chỉ thời gian “mai” đi liền với địa danh “miền Nam” thể hiện sự chia xa, xa cách cả về thời gian và không gian. Tuy khoảng cách có xa nhưng tấm lòng, tình cảm của tác giả, của những người con miền Nam vẫn dõi theo hình bóng của Người, muốn ở bên Người lâu hơn

– Bằng lối nói diễn tả cảm xúc: “thương trào nước mắt”, tác giả đã cụ thể hóa nỗi nhớ thương vô cùng da diết. Cảm xúc “trào nước mắt” mặt khác còn thể hiện sự gắn bó của tác giả với miền Bắc (nơi đặt lăng Bác), với Bác Hồ trong trái tim của những người con miền Nam. 

Sau khi hoàn thành chuyến thăm lăng Bác và nói lời tạm biệt, tác giả dường như đang bày tỏ khát vọng hóa thân, làm sao để được ở lại bên Bác lâu hơn. Khát vọng ấy thể hiện rõ nét qua ba câu thơ cuối của bài thơ: 

“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác 

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây 

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”

– Ba câu thơ với nhịp điệu dồn dập, kết hợp cùng điệp từ “muốn làm” ở đầu cho mỗi dòng thơ đã góp phần tô đậm sự tha thiết, mong ước mãnh liệt của tác giả khi muốn bất chấp hóa thân thành vạn vật, chỉ để được ở gần bên Bác

Phân tích hệ thống hình ảnh giàu sức gợi mà tác giả đã sử dụng trong mong muốn hóa thân của mình: “con chim”, “đóa hoa”, “cây tre”

– Với lớp nghĩa thực: chim, hoa hay hàng cây tre chính là những sự vật có trong lăng Bác. Tác giả vừa muốn ở lại bên Bác, vừa muốn góp cuộc đời mình để tô đẹp thêm cho cảnh quan quanh lăng. Tác giả ước được hóa thân thành “con chim” để cất tiếng hót làm vui lăng Bác; muốn làm “đóa hoa” để mang lại sắc hương trong vườn hoa quanh lăng. Cuối cùng, tác giả ao ước được làm là “cây tre trung hiếu” để hòa vào “hàng tre bát ngát”, bất khuất, kiên cường, tỏa bóng mát cho lăng mãi theo thời gian

– Với lớp nghĩa ẩn dụ: Tác giả mong muốn được ở lại miền Bắc, cạnh bên Bác để canh cho Người giấc ngủ yên. Hơn nữa, để có thể nghe được tiếng hót của chim, thưởng thức hương sắc của những đóa hoa thì cần sự hi sinh lớn lao của Bác. Vì vậy, tác giả muốn thông qua các sự vật trên để bày tỏ niềm biết ơn sâu sắc dành cho Bác. Đồng thời qua hình ảnh “cây tre” tác giả cũng muốn tôn vinh vẻ đẹp bất khuất, trung hiếu của con người Việt Nam.

=> Bài thơ đã khép lại bằng hình ảnh “cây tre trung hiếu”, tương đồng với hình ảnh “hàng tre bát ngát” ở đầu bài thơ, xây dựng thành một kết cấu đầu cuối tương ứng, thể hiện được mong ước và tấm lòng tác giả dành cho Bác.

 

III. Tổng kết chung phân tích bài thơ Viếng lăng Bác

1. Về nội dung

Bài thơ là niềm xúc động thiêng liêng, thành kính và niềm tự hào, đau xót của nhà thơ Viễn Phương, người đồng bào miền Nam khi thăm lăng Bác sau khi miền Nam giải phóng, thống nhất đất nước.

2. Về nghệ thuật

– Bài thơ được viết với giọng điệu nhẹ nhàng, trầm lắng, phù hợp với nội dung tình cảm, cảm xúc của khung cảnh viếng lăng Bác: trang nghiêm, sâu lắng, đau xót và tự hào

Thể thơ 8 chữ xen lẫn dòng thơ 7 hoặc 9 chữ, kết hợp với nhịp thơ chậm đã diễn tả sự trang nghiêm, thành kính và những cảm xúc sâu sắc của tác giả trong ngày thăm lăng Bác. Đặc biệt với khổ thơ cuối, nhịp thơ có phần nhanh hơn, dồn dập hơn qua biện pháp tu từ điệp ngữ, đã bộc lộ chính xác tâm tư, tình cảm và sự khát khao, niềm mong ước hóa thân của tác giả

– Tác giả đã sử dụng hệ thống hình ảnh thơ sáng tạo, đặc sắc, kết hợp nhuần nhuyễn giữa hình ảnh tả thực với hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng. Những hình ảnh ẩn dụ mang tính biểu tượng có thể kể đến như “mặt trời trong lăng”, “tràng hoa”, “trời xanh” vừa mang đến vẻ quen thuộc, gần gũi, vừa có sự sâu sắc và mang lại giá trị biểu cảm cao cho bài thơ

Trên đây là toàn bộ phần phân tích nội dung bài thơ Viếng lăng Bác của tác giả Viễn Phương. Hy vọng với bài phân tích trên đã có thể cung cấp cho các bạn học sinh phần kiến thức hữu ích, giúp cho các bạn hệ thống kiến thức về các tác phẩm ôn thi vào 10 hiệu quả hơn trước khi bước vào các kì thi. Chúc các bạn ôn tập hiệu quả và đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới!

 

Tham khảo thêm:

Phân tích bài thơ Sang thu