Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều – HOCMAI

0
73112
phan-tich-chi-em-thuy-kieu-ava

Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” trong tác phẩm Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là một trong số các tác phẩm Ôn thi vào lớp 10. Với mục đích giúp các bạn học sinh nắm rõ hơn về kiến thức trọng tâm của tác phẩm, HOCMAI sẽ tổng hợp chi tiết kiến thức về đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”.

I. Thông tin đoạn trích Chị em Thúy Kiều

1. Ví trí, thể loại của đoạn trích

a. Đoạn trích chị em Thúy Kiều nằm trong phần nào của Truyện Kiều?

Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” là một trong những đoạn thơ hay và đặc sắc trong tác phẩm Truyện Kiều. Nhằm hiểu thêm chi tiết về toàn bộ tác phẩm, xem thêm tại Phân tích tác phẩm Truyện Kiều

– “Chị em Thúy Kiều” nằm ở phần I của tác phẩm, có tên “Gặp gỡ và đính ước”. Với mạch thơ tập trung miêu tả gia đình Vương viên ngoại, trích đoạn thơ trên miêu tả vẻ đẹp và phẩm hạnh “đoan trang, nết na” của chị em Thúy Vân, Thúy Kiều.

b. Chị em Thúy Kiều thuộc thể loại gì?

– Nằm trong trường đoạn Đoạn trường tân thanh, đoạn trích Chị em Thúy Kiều được viết theo thể thơ lục bát, với bản gốc là thơ chữ Nôm. 

– Nhà thơ Chế Lan Viên từng có lời ca ngợi thơ của Nguyễn Du rằng: “Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn”. Thể thơ lục bát được sử dụng xuyên suốt tác phẩm Truyện Kiều là một niềm tự hào của văn học Việt Nam.

2. Tóm tắt Chị em Thúy Kiều

Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” đã khắc họa rõ nét bức chân dung tuyệt mỹ của hai chị em Thúy Kiều, không chỉ ở vẻ đẹp bên ngoài mà còn là nội tại và phẩm hạnh bên trong. Qua những phép ẩn dụ tự nhiên, chị em Thúy Kiều, Thúy Vân hiện ra như hai vầng trăng ngọc ngà, duyên dáng. Câu thơ “Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân” đã thể hiện đầy khéo léo thứ bậc hai người con gái trong gia đình Vương viên ngoại. Nguyễn Du gây ấn tượng với người đọc bởi tinh thần và cốt cách của hai Kiều. 

Dưới ngòi bút của ông, hình ảnh Thúy Vân, Thúy Kiều toát ra vẻ đẹp và cốt cách thanh tao tựa hoa mai, tâm hành, phẩm hạnh đoan trang, thuần hậu như hoa tuyết. Phép tiểu đối mang hình ảnh ẩn dụ vừa đặc tả bức tranh thiếu nữ mang một vẻ sáng trong vừa khơi gợi xúc cảm thẩm mĩ cho người đọc. Hai chị em mỗi người một vẻ, nhưng đều mang vẻ đẹp hoàn mỹ, trang trọng.

Từng câu thơ mang điển cố điển tích, nghệ thuật ước lệ tượng trưng được lồng vào câu thơ của Nguyễn Du mang bao tình cảm mến yêu, trân trọng. Với nghệ thuật đòn bẩy, tác giả đã miêu tả hình tượng nhân vật người em Thúy Vân nhằm làm nổi bật hình tượng Thúy Kiều. 

Ca ngợi hai chị em nhưng sắc độ khác biệt khi Nguyễn Du chỉ dành bốn câu thơ để tả sắc của Vân, trong khi dành tới mười hai câu tả sắc, tài và tình của Kiều. Vẻ đẹp của nàng Kiều được khắc họa như một vẻ đẹp vẹn toàn, “mười phân vẹn mười”. Ở trên đời có mấy ai được “mười phân vẹn mười”? Đây là vẻ đẹp khiến tạo hóa phải hờn giận, các tạo vật khác phải đố kị. Cùng trí tuệ tài hoa, tâm hồn đa sầu đa cảm, Kiều khó tránh khỏi số phận nghiệt ngã, éo le phía trước. 

3. Bố cục đoạn trích Chị em Thúy Kiều

Theo nội dung, Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” được chia thành 4 phần bao gồm: 

– Phần một: 4 câu thơ đầu: Giới thiệu hình ảnh Chị em Thúy Kiều

– Phần hai: 4 câu thơ tiếp: Hình tượng nhân vật Thúy Vân

– Phần ba: 12 câu thơ tiếp theo: Hình tượng nhân vật Thúy Kiều với vẻ đẹp vẹn toàn 

– Phần bốn: 4 câu thơ cuối: Lời nhận định của Nguyễn Du về xuất thân và vẻ đẹp phẩm hạnh của chị em Thúy Kiều

– Với bố cục mang kết cấu rõ ràng, hợp lý; Nguyễn Du khéo léo giúp người đọc có cái nhìn tổng quát cũng như chuyên sâu về hai nhân vật chính trong đoạn trích. 

=> Bố cục này có liên quan tới thứ tự miêu tả của nhân vật. Phần giữa đoạn trích, tác giả có thể miêu tả cụ thể từng người theo ý đồ nghệ thuật của mình. Trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, Thúy Vân được miêu tả trước, còn Thúy Kiều được miêu tả sau. Đây là một thủ pháp nghệ thuật quan trọng của Nguyễn Du.

II. Phân tích Chị em Thúy Kiều

1. Phân tích bốn câu thơ đầu Chị em Thúy Kiều: Giới thiệu hình ảnh Chị em Thúy Kiều

Nghệ thuật ước lệ, điển cố được Nguyễn Du sử dụng nhuần nhuyễn trong 4 câu thơ mở đầu đoạn trích. Qua bốn câu thơ này, tác giả đã giới thiệu khái quát về lai lịch, vị trí trong gia đình cũng như vẻ đẹp của hai chị em Kiều: 

“Đầu lòng hai ả tố nga

Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân

Mai cốt cách tuyết tinh thần

Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.”

Hai câu thơ mở đầu đoạn trích đã thể hiện vai vế và giới thiệu về hai nàng “tố nga” trong gia đình Vương viên ngoại:

– Nhà thơ sử dụng từ ngữ “ả tố nga” – một từ mượn tiếng Hán đắt giá, có ý chỉ những người con gái mang vẻ đẹp tựa trăng trên trời. 

– Câu thơ đầu tiên hàm ý kể về hai người con gái đầu lòng trong gia đình họ Vương, sau đó ngay trong câu thơ tiếp Nguyễn Du viết về vị trí và danh xưng của hai nàng. 

– Câu thơ “Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân” thể hiện vai vế của hai chị em, đồng thời cũng giới thiệu cho người đọc về tên của hai nàng tố nga. 

=> Chỉ qua hai câu thơ, Nguyễn Du đã đưa cho người đọc hình dung khái quát về hai cô con gái đầu lòng nhà Vương ông, với người chị tên Thúy Kiều và người em tên Thúy Vân. Hai người đều là những người con gái rất đẹp.

Ngay sau đó, Nguyễn Du gợi tả vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều bằng cách so sánh nét đẹp với hình ảnh thiên nhiên như hoa mai hay hoa tuyết:

– Bút pháp ước lệ gợi ấn tượng về vẻ đẹp với cốt cách như mai, thanh tao, và cốt cách trong trắng, tinh khôi như tuyết. Điển cố “Mai cốt cách” được dùng nhằm miêu tả cốt cách hai chị em thanh cao như hoa mai. Hoa mai, một loài hoa đẹp cả sắc lẫn hương: sắc thì rực rỡ, hương thì quý phái. Việc miêu tả cốt cách hai người với loài hoa này giúp người đọc có được ấn tượng về tính cách và phong thái của hai chị em. Đó là một cốt cách đầy thanh cao, diễm lệ. 

– Sử dụng điển cố “Tuyết tinh thần” để nhấn mạnh một lần nữa vẻ đẹp nội tại của hai nàng Kiều. Cả Thúy Vân và Thúy Kiều đều mang tinh thần của tuyết trắng. Tuyết vốn là một thực thể có trong tự nhiên, có màu trắng và tượng trưng cho sự thuần khiết, trong trắng. Câu thơ này có ý nói cả hai chị em nhà Vương viên ngoại đều duyên dáng, trong trắng và tinh khôi như hình ảnh những bông tuyết. 

– Nhịp thơ ở câu thơ thứ hai và câu thơ thứ ba lần lượt là nhịp 4/4 và 3/3, mang lại cảm giác nhịp nhàng, đối xứng. Người đọc qua hai câu thơ có thể cảm nhận được vẻ đẹp đạt tới độ hoàn mỹ của hai chị em Thúy Kiều. 

Lời bình của Nguyễn Du tổng kết khép lại bốn câu thơ đầu: “Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười”:

– “Mỗi người một vẻ” cho thấy sự khác biệt của hai chị em, dù đều chung cốt cách thanh tao duyên dáng thì vẫn có những nét riêng từ nhan sắc, tính cách hay tâm hồn giữa hai chị em Thúy Kiều. 

– “Mười phân vẹn mười” làm nổi bật và nhấn mạnh một lần nữa về vẻ đẹp toàn diện, hoàn hảo của Thúy Kiều và Thúy Vân. 

=> Câu thơ vừa gợi sự tò mò của người đọc về sự khác nhau giữa hai chị em, vừa nhấn mạnh sắc đẹp, tài năng của hai người. Sử dụng câu thơ tổng kết tài tình giúp Nguyễn Du liên kết với những vần thơ miêu tả chi tiết hai chị em phía sau.

=> Có thể thấy chỉ qua 4 câu thơ giới thiệu vô cùng ngắn gọn, Nguyễn Du đã gửi tới người đọc rất nhiều thông tin, từ đó có được ấn tượng đậm nét về vẻ đẹp của hai nhân vật Thúy Vân và Thúy Kiều. Đây không còn là nhân vật trong trang sách mà đã hiện ra sinh động trước mắt người đọc. Đồng thời, 4 câu thơ cũng gián tiếp bộc lộ cảm hứng yêu cái đẹp, niềm yêu thích thưởng thức ca ngợi tài hoa, nhan sắc con người của đại thi hào Nguyễn Du. 

2. Phân tích bốn câu thơ tiếp theo: Hình tượng nhân vật Thúy Vân

Sau khi gây tò mò cho người đọc về vẻ đẹp khác nhau của hai chị em Thúy Kiều, Thúy Vân; Nguyễn Du viết tiếp 4 câu thơ nhằm miêu tả hình tượng nhân vật Thúy Vân. Chỉ với 4 câu thơ, hình ảnh nhân vật Thúy Vân đã hiện lên trước mắt người đọc một cách đầy đủ và hết sức trọn vẹn: 

“Vân xem trang trọng khác vời,

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.

Hoa cười ngọc thốt đoan trang 

Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.”

Câu thơ đầu tiên được sử dụng để giới thiệu một cách khái quát về phong thái của Thúy Vân:

– Từ “xem” trong câu đầu là đánh giá chủ quan từ người miêu tả. Người đọc như được hòa vào dòng thời gian tới nơi hai chị em sinh sống, gặp trực tiếp Thúy Vân. 

– Cụm từ “Trang trọng khác vời” như một lời khen dành cho Thúy Vân, khi đây là một vẻ đẹp hết sức đoan trang, cao sang, quý phái. Vốn đã mang trong mình vẻ đẹp cao sang của con gái quý tộc, nay Thúy Vân còn được Nguyễn Du đánh giá phần hơn với cụm “khác vời”. Qua đó có thể hình dung, vẻ đẹp của nàng có phần nhỉnh hơn những người khác. 

=> Chỉ trong câu thơ đầu, phong thái Thúy Vân đã hiện lên như một người phụ nữ phong nhã, đoan trang trong khuôn phép và lễ giáo của xã hội thời phong kiến. Đây là một ấn tượng tốt đẹp, đầy sức gợi.

Tiếp đó, tác giả miêu tả chi tiết bức chân dung tuyệt hảo của nhân vật Thúy Vân bằng bút pháp nghệ thuật ước lệ tượng trưng cùng nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa và so sánh:

– Với nghệ thuật ước lệ tượng trưng, vẻ đẹp của Vân được so sánh với những thứ cao đẹp tuyệt hảo của thiên nhiên như trăng, hoa mây hay tuyết cùng ngọc. Điều này giúp người đọc có được cái nhìn cụ thể hơn về cái đẹp mà Nguyễn Du muốn lột tả.

– Hình ảnh ẩn dụ “khuôn trăng đầy đặn” giúp hình dung về một khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu, xinh đẹp và trong sáng như khuôn trăng rằm. Trong khi đó, hình ảnh “nét ngài nở nang” lại vẽ lên một đôi lông mày sắc nét, cong như mày ngài. Văn học Việt Nam cũng có câu để tả vẽ đẹp của người phụ nữ đẹp “mắt phượng mày ngài”. Cặp lông mày ấy mang lại vẻ cân đối, hài hòa trên tổng thể khuôn mặt đầy trẻ trung của Thúy Vân. 

– Hình ảnh nhân hóa “hoa cười ngọc thốt” được sử dụng trong câu thơ thứ ba miêu tả một khuôn miệng tươi tắn tựa hoa nở cùng giọng nói trong trẻo thốt ra qua hàm răng ngọc. Một phần phong thái của Vân cũng được thể hiện ra vần thơ này – dịu dàng, tươi trẻ với khuôn mặt luôn tươi tắn, phong thái đoan trang, nhẹ nhàng.

– Trong câu tiếp theo, nghệ thuật nhân hóa cùng so sánh lại được Nguyễn Du vận dụng nhuần nhuyễn: “Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”. Câu thơ này muốn chỉ mái tóc óng ả, xanh hơn, nhẹ hơn mây, da trắng mịn hơn tuyết của Thúy Vân.

– Thủ pháp liệt kê cũng được sử dụng hết sức tài tình khi tác giả tập trung miêu tả đường nét khuôn mặt để chứng minh cho sự “đoan trang khác vời” đã nhắc trong câu thơ đầu đoạn. Nguyễn Du đã miêu tả từ tổng thể tới chi tiết khuôn mặt Vân, từ khuôn mặt, tới nét mày, nụ cười, mái tóc rồi nước da. Bên cạnh đó, Nguyễn Du cũng sử dụng nhiều từ ngữ tượng hình giàu sức gợi như “đầy đặn”, “nở nang” và “đoan trang” nhằm làm nổi bật và nhấn mạnh vẻ đẹp đầy đặn, phúc hậu, quý phái của Thúy Vân.  

– Hai từ “thua” và “nhường” trong câu thơ cuối được nhà thơ sử dụng một cách đắt giá. Hai sự vật “mây” và “tuyết” là những tạo vật từ thiên nhiên, hết sức to lớn, thậm chí có thể đại diện cho trời, hay suy rộng ra là xã hội phong kiến thời bấy giờ. Vẻ đẹp của Thúy Vân khi đối trọng với những sự vật đẹp nhất của thiên nhiên vẫn phù hợp và hài hòa trong khuôn khổ của xã hội phong kiến. Nàng vẫn được đón nhận, yêu thương với vẻ đẹp phúc hậu, đoan trang của mình. 

=> Từ bức chân dung miêu tả ngoại hình Thúy Vân, ta có thể thấy được tính cách cùng dự đoán số phận tương lai của nàng. Vân là một người con gái đoan trang, dịu dàng, phúc hậu đầy sức sống – một người phụ nữ chuẩn mực trong xã hội phong kiến thời bấy giờ. Qua đó, nhà thơ cũng hàm ẩn sự dự đoán về một tương lai êm ấm, bình lặng trong cuộc sống của nàng.

3. Phân tích 12 câu thơ tiếp theo: Hình tượng nhân vật Thúy Kiều với vẻ đẹp vẹn toàn 

– Khi miêu tả hình tượng Thúy Vân, Nguyễn Du chỉ sử dụng bốn câu thơ. Tuy vậy, đến nhân vật Thúy Kiều, nhà thơ dùng đến mười hai câu. Điều này chứng tỏ sự ưu ái và bút lực mà Nguyễn Du muốn dành để miêu tả nhân vật chính này

– Sự yêu mến đó thể hiện qua nghệ thuật đòn bẩy được sử dụng hết sức tài tình: Nhân vật Thúy Vân được miêu tả trước như một tuyệt sắc giai nhân, “trang trọng khác vời” khiến “mây thua, tuyết nhường”. Tất cả điều này có vai trò làm nổi bật vẻ đẹp của Thúy Kiều: 

“Kiều càng sắc sảo mặn mà, 

So bề tài sắc lại là phần hơn.”

– So với Thúy Vân, Kiều lại là phần hơn. Từ “càng” được tác giả đặt trước hai từ láy “sắc sảo”, “mặn mà” nhằm tô đậm vẻ đẹp trí tuệ đầy sắc sảo cùng sắc đẹp mặn mà của nhân vật Thúy Kiều.

=> Dù không tả cụ thể, Nguyễn Du lại làm nổi bật trước mắt người đọc về một Thúy Kiều với nhan sắc và tài năng vượt trội so với người em Thúy Vân. Lối miêu tả này cũng giúp nhà thơ không rơi vào sự trùng lặp, ngoài ra giúp phát huy thêm trí tưởng tượng của đọc giả. Điều này thể hiện cái tài của Nguyễn Du. 

a. Vẻ đẹp ngoại hình

Khác với Thúy Vân, Nguyễn Du không miêu tả cụ thể, chi tiết ngoại hình hay cốt cách mà đặc tả đôi mắt Thúy Kiều theo lối “điểm nhãn”. Nhà thơ vẽ nên hồn của chân dung Kiều bằng những hình ảnh mang tính ước lệ, tượng trưng:

“Làn thu thủy nét xuân sơn 

Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.” 

– Bức chân dung nàng Kiều hiện lên qua những ảnh ước lệ, ẩn dụ như “làn thu thủy, nét xuân sơn”. Qua nét bút của thi nhân, vẻ đẹp của một giai nhân tuyệt thế hiện lên trước mắt người đọc. 

– Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, thể hiện một phần tâm hồn và trí tuệ của người sở hữu chúng. Khi vẽ nên bức chân dung nàng Kiều, Nguyễn Du lại tập trung miêu tả vẻ đẹp đôi mắt.

– “Làn thu thủy”, vốn là nước mùa thu, được dùng gợi tả một đôi mắt trong sáng, tĩnh lặng mà lại long lanh, huyền ảo và lắng đọng như nước mùa thu.

– “Nét xuân sơn” giúp người đọc nghĩ tới đôi lông mày thanh tú, mềm mại như dáng núi mùa xuân. Gương mặt Kiều được phú cho đôi mày và mắt tựa những dáng hình đẹp nhất trong các mùa, là một minh chứng cho câu thơ “càng sắc sảo mặn mà” khi so sánh với em gái Thúy Vân. 

– Cách miêu tả của Nguyễn Du trong hai câu thơ trên mang đậm nét truyền thống của văn học trung đại thời bấy giờ. Bằng cách chấm phá xen lẫn với tỉ mỉ, tác giả chơi đùa với những câu thơ và đưa những miêu tả với sắc độ đậm nhạt đan xen với nhau kết hợp hết sức hài hòa.

– Sử dụng hình ảnh nhân hóa “hoa ghen”, “liễu hờn” nhằm thể hiện thái độ của thiên nhiên tạo hóa trước vẻ đẹp của Thúy Kiều. Nguyễn Du một lần nữa không tả trực tiếp vẻ đẹp của Kiều mà khẳng định điều đó qua việc lột tả sự đố kị, ganh ghét của tạo hóa. 

=> Dung nhan nàng Kiều giờ đây không chỉ sắc sảo mặn mà hơn Thúy Vân mà còn làm thiên nhiên hờn ghen. Vẻ đẹp Kiều đằm thắm tới hoa phải ghen, dáng vẻ trẻ trung tươi sáng đầy sức sống khiến liễu phải hờn.

Hai câu thơ tiếp theo vừa khẳng định thêm về nhan sắc của nàng Kiều và mang ẩn ý thêm về tài sắc của nàng giai nhân: 

“Một hai nghiêng nước nghiêng thành

Sắc đành đòi một tài đành họa hai”

– Vẻ đẹp của Thúy Kiều một lần nữa được Nguyễn Du nâng lên tầm cao mới khi không chỉ khiến tạo vật thiên nhiên đố kị mà còn làm đắm say lòng người qua điển tích điển cố “nghiêng nước nghiêng thành”. 

– “Nghiêng nước nghiêng thành” là cách nói sáng tạo từ điển cố “nhất cố khuynh nhân thành, tái cố khuynh nhân quốc”. Câu nói này lược dịch có nghĩa là “giai nhân ngoảnh lại nhìn một lần làm nghiêng thành người, giai nhân ngoảnh lại nhìn lần nữa làm nghiêng nước người. Vẻ đẹp của Thúy Kiều được nâng lên bằng với tuyệt sắc giai nhân, khiến nước phải nghiêng, thành phải đổ. Không chỉ có được nhan sắc tột bậc, nàng còn mang trong mình tài năng, thể hiện qua câu thơ “Sắc đành đòi một tài đành họa hai.”

– Dung nhan của Thúy Kiều mang lại ấn tượng mạnh cùng sức gợi lớn cho người đọc. Đó là vẻ đẹp của bậc tuyệt thế giai nhân, vẻ đẹp thách thức và hơn cả những khuôn phép của tạo hóa.

=> Nét đẹp của Thúy Kiều phần nào dự báo về tính cách và số phận của nàng. Cái đẹp của nàng không hài hòa mà vượt qua ranh giới phép tắc chuẩn mực của tạo hóa, xã hội. Dung nhan nàng khiến các vẻ đẹp khác của thiên nhiên ganh ghét, oán hận và đố kị; gây ra những ý muốn trả thù. Nguyễn Du đã dự báo về một số phận sóng gió và đầy trắc trở bởi “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.”  

b. Vẻ đẹp của tâm hồn và tài năng hơn người

Vẻ đẹp ngoại hình của Kiều vốn coi là một giai nhân tuyệt thế. Nhưng chưa dừng lại ở đó, Nguyễn Du còn miêu tả nàng với những đặc điểm của một người phụ nữ thông minh, có trí tuệ thiên bẩm và tài năng ở đa lĩnh vực:

“Thông minh vốn sẵn tính trời,

Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm

Cung thương lâu bậc ngũ âm

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương.”

– Việc miêu tả Kiều với vẻ đẹp trí tuệ là một sự táo bạo, sự đột phá trong văn học của Nguyễn Du. Hiếm khi trong văn học trung đại, các tác giả coi sự thông minh xuất chúng của người phụ nữ là một phương diện để ca ngợi. Bởi lẽ, người phụ nữ trong xã hội phong kiến thường chỉ được gán với các đức tính như “công, dung, ngôn, hạnh”, “cầm – kì – thi – họa” hay “tam tòng, tứ đức” và không hề có phương diện thông minh. 

=> Ca ngợi sự thông minh của Kiều trong bối cảnh của xã hội phong kiến lúc bấy giờ có thể coi là một sự bứt phá, dũng cảm và táo bạo mà chỉ Nguyễn Du mới làm được. Ông đã đưa nhân vật Kiều – một người phụ nữ với vẻ đẹp hoàn hảo, vượt khỏi những khuôn mẫu chuẩn mực khắt khe của xã hội phong kiến – một xã hội trọng nam khinh nữ sâu sắc. 

– Kiều là một người con gái nhiều tài lẻ: nàng thành thạo từ chơi đàn (cầm), chơi cờ (kì), ngâm thơ (thi) và vẽ (họa). Không những thế tài nào nàng cũng đạt đến độ xuất chúng. 

Đặc biệt, tài năng chơi đàn của Kiều đã được Nguyễn Du miêu tả:

“Làu bậc ngũ âm”, “ăn đứt hồ cầm”: tác giả thể hiện rằng đàn là năng khiếu, là sở trường của Kiều. Khả năng chơi đàn của nàng điêu luyện và chuyên nghiệp vượt trên khả năng của người thường

– Kiều có sự thấu hiểu về âm nhạc: âm luật xưa nay nàng đều nắm chắc;  nàng còn rất am tường năm cung bậc trong âm luật là cung, thương, giốc, trủy, vũ, hiểu về cách xếp theo giọng đục trong, cao thấp trong âm nhạc

– Không chỉ đàn hay, Kiều còn có khả năng sáng tác. Khúc “Bạc mệnh” được đề cập trong câu thơ chính là giai điệu mà nàng tự viết. Giai điệu da diết đến nỗi khi cất lên, ai ai cũng xúc động và bày tỏ sự đồng cảm sâu sắc

– Miêu tả tài năng chơi đàn là cách mà Nguyễn Du đã khéo léo khắc họa một thế giới tâm hồn nhạy cảm, đa sầu, đa cảm bên trong Thúy Kiều. Bởi lẽ nghệ thuật phản ánh tâm hồn người nghệ sĩ. Chỉ những người có một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế mới có thể viết lên được những khúc nhạc chạm đến trái tim người nghe.

– Đặc biệt, tác giả nhắc đề cung “Bạc mệnh”, khúc nhạc do Kiều tự sáng tác. Nhan đề “Bạc mệnh” như dự báo trước cuộc đời bấp bênh, hồng nhan bạc mệnh khó tránh khỏi của nàng.

– Những từ ngữ Nguyễn Du dùng để miêu tả tài năng của Thúy Kiều cũng hết sức đặc sắc. Khi thì dùng những từ mang tính đề cao như “vốn sẵn tính trời”, “đủ mùi” hay “làu”, “ăn đứt” để thể hiện tài năng không ai sánh kịp. Khi dùng từ ngữ mang tính nhún nhường, khiêm tốn như “pha nghề thi họa” nhưng ẩn sâu trong đó là sự thán phục, trân trọng của tác giả trước tài năng hiếm có, toàn năng của một người thiếu nữ.

=> Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử văn học trung đại, hình ảnh người với vẻ đẹp phụ nữ hoàn mĩ từ hình thức đến tâm hồn được thể hiện bằng một giọng ca ngợi đầy trân trọng như cách Nguyễn Du viết về Thúy Kiều

=> Qua mười hai câu thơ, tác giả đã thể hiện sinh động vẻ đẹp hội tụ sắc – tài – tình, tất cả đều đến mức lí tưởng, xuất chúng của nhân vật Thúy Kiều. Đồng thời, cho thấy sự tài hoa, tinh tế của Nguyễn Du trong cách vận dụng nghệ thuật miêu tả nhân vật.

4. Phân tích 4 câu thơ cuối: Lời nhận định của Nguyễn Du về xuất thân và vẻ đẹp phẩm hạnh của chị em Thúy Kiều 

– Sau khi khắc họa lên bức chân dung của hai chị em Vân và Kiều, Nguyễn Du đã có những lời nhận xét về cuộc sống của hai người qua 4 câu thơ cuối đoạn trích:

“Phong lưu rất mực hồng quần,

Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê

Êm đềm trướng rủ màn che,

Tường đông ong bướm đi về mặc ai.”

Qua đó, có thể thấy, hai chị em Thúy Vân, Thúy Kiều không chỉ là những người phụ nữ có vẻ đẹp toàn vẹn, bậc tuyệt thế giai nhân mà họ còn là những người con gái đức hạnh, có lối sống khuôn phép:

– Hoàn cảnh xuất thân: hai chị em là con đầu lòng trong một gia đình phong lưu, gia giáo. Có cha làm quan và được giáo dục cẩn thận về khuôn phép, nề nếp, lễ nghĩa.

– Cuộc sống: yên bình, êm đềm, bình lặng, đang trong độ tuổi lập gia đình nhưng rất kín đáo và ít có sự giao tiếp ngoài xã hội

– Cụm từ “Xuân xanh xấp xỉ”, “tuần cập kê” gợi nhắc đến cái tuổi “tóc búi, trâm cài” của cả hai chị em. Tuy đã đến tuổi lập gia đình, nhưng họ vẫn sống kín đáo, chưa từng biết đến chuyện nam nữ.

– Thành ngữ “trướng rủ màn che” thể hiện lối sống khép kín, đặc trưng của những nàng tiểu thư thời xưa. Họ xinh đẹp, tài năng nhưng cũng được gia đình bao bọc hết mực. Những nàng tiểu thư này thường chỉ sinh hoạt trong nhà, học về nữ công gia chánh, khuôn phép và rất ít có cơ hội giao tiếp với thế giới bên ngoài

–  Hình ảnh “ong bướm” ẩn dụ cho những người đàn ông tán tỉnh phụ nữ để thỏa mãn thú vui. Với vẻ đẹp vẹn toàn của hai chị em Kiều, chắc hẳn có không ít chàng trai để ý và tán tỉnh. Mặc dù vậy, cả hai chị em đều không quan tâm, không thèm để ý, giữ cho mình sự danh giá của những tiểu thư quý tộc. 

=> Hai chị em Kiều tuy là những thiếu nữ trưởng thành với vẻ đẹp vẹn toàn từ nhan sắc đến tài năng, nhưng với lối sống kín đáo, họ vẫn giữ được tâm hồn trong trắng. Sự thuần khiết của họ tựa như hai bông hoa vẫn còn trong nhụy, được nâng niu, che chở và chưa một lần hương tỏa vì ai. Đó chính là nét đẹp phẩm chất cao đẹp, đúng với khuôn phép, chuẩn mực của lễ giáo phong kiến.

5. Cảm hứng nhân văn qua đoạn trích

Cảm hứng nhân văn trong văn học có thể hiểu là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, tình cảm của tác giả về các giá trị cao đẹp của con người. Chúng được gài gắm và chuyển hóa qua những câu văn giàu cảm xúc trong tác phẩm

– Cảm hứng nhân văn của “Chị em Thúy Kiều” được thể hiện qua cách Nguyễn Du ca ngợi vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều. Ông đã thể hiện sự trân trọng và đề cao những giá trị, vẻ đẹp của con người, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ không chỉ có vẻ đẹp về nhan sắc, tài hoa, phẩm hạnh mà còn có ý thức sâu sắc về thân phận của chính mình

– Cảm hứng nhân văn thể hiện qua những dự cảm đầy xót thương về kiếp những con người hồng nhan bạc mệnh, tài mệnh tương đố trong xã hội. Từ giọng điệu đến hình ảnh thơ trong đoạn trích đều phảng phất nỗi lo lắng, dự đoán của Nguyễn Du về số phận bấp bênh của nàng Kiều – một kiếp người tài hoa bạc mệnh. 

=> Qua đoạn thơ, ta có thể cảm nhận trái tim như hòa cùng cảm hứng sáng tạo của tác giả. Từ đó khơi dậy tình yêu thương, trân trọng con người và cảm thông cho những kiếp người “hồng nhan bạc mệnh”, bị xã hội đàn áp đến tận cùng. Đó cũng chính là cách Nguyễn Du biểu hiện tấm lòng thương cảm sâu sắc, tràn đầy cảm hứng nhân văn của mình qua những áng thơ đầy ý nghĩa.

III. Sơ đồ tư duy chị em Thúy Kiều 

Nhằm giúp các bạn học sinh có thể nắm nội dung phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều tốt hơn, dưới đây là sơ đồ tư duy dành cho các bạn tham khảo.

so-do-tu-duy-chi-em-thuy-kieu

HM10 2024 - GIẢI PHÁP LUYỆN THI TOÀN DIỆN
NẮM CHẮC KIẾN THỨC - KHÔNG LO BIẾN DỘNG ĐỀ THI
  • Lộ trình toàn diện - NẮM CHẮC NỀN TẢNG - TỔNG ÔN TOÀN DIỆN - LUYỆN ĐỀ CHUYÊN SÂU
  • ĐA DẠNG HÌNH THỨC HỌC - PHÙ HỢP VỚI MỌI NHU CẦU
  • TOP THẦY CÔ DANH TIẾNG, GIÀU KINH NGHIỆM
  • DỊCH VỤ HỖ TRỢ HỌC TẬP ĐÔNG HÀNH TRONG SUÔT QUÁ TRÌNH HỌC TẬP
Ưu đãi đặt chỗ sớm - Giảm đến 45%! Áp dụng cho PHHS đăng ký trong tháng này!

 

IV. Tổng kết chung

1. Nội dung đoạn trích

Qua đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, Nguyễn Du đã khắc họa rõ nét bức chân dung vẻ đẹp từ ngoại hình đến nhân phẩm của chị em Thúy Vân và Thúy Kiều. Vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều, Thúy Vân cũng chính là vẻ đẹp chuẩn mực, lí tưởng của phụ nữ trong xã hội phong kiến. Đoạn trích không chỉ là lời ngợi ca vẻ đẹp tài năng của con người mà còn là dự đoán về số phận bấp bênh của một kiếp người tài hoa bạc mệnh.

2. Các biện pháp tu từ trong chị em Thúy Kiều

– Bút pháp ước lệ tượng trưng: lấy thiên nhiên để tả vẻ đẹp con người giúp tăng sức gợi trong miêu tả nhân vật

– Nghệ thuật xây dựng nhân vật tinh tế: chân dung nhân vật được xây dựng đa dạng, linh hoạt và mỗi nhân vật đều có nét tính cách đặc trưng, thu hút riêng

– Sử dụng biện pháp ẩn dụ, so sánh, nhân hóa, kết hợp cùng ngôn từ độc đáo, lựa chọn những từ ngữ có giá trị gợi tả cao đã giúp truyền tải những ý nghĩa nhân văn có trong đoạn trích đến với người đọc.

Trên đây là dàn ý chi tiết phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du. Ngoài đoạn trích trên, các bạn học sinh có thể tham khảo thêm các bài phân tích chi tiết khác tại Soạn văn 9 để đảm bảo nắm chắc kiến thức văn học trước khi bước vào các kì thi quan trọng. HOCMAI hy vọng rằng, những nội dung trên sẽ hỗ trợ các bạn có một kỳ ôn tập thật hiệu quả.