Trong chương trình Ngữ Văn 9, các bạn học sinh đã được học rất nhiều các tác phẩm ôn vào lớp 10 môn Văn. Nhằm giúp các bạn hệ thống kiến thức dễ dàng hơn, trong bài viết này, cùng HOCMAI phân tích tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ của nhà thơ Thanh Hải.
I. Thông tin về tác giả – tác phẩm
1. Tác giả: Thanh Hải
– Tên thật: Phạm Bá Ngoãn
– Nghệ danh: Thanh Hải
– Sinh năm 1930, mất năm 1980
– Quê quán: Phong Điền, Thừa Thiên Huế
– Bắt đầu hoạt động thơ ca văn nghệ giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp
– Giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Thanh Hải hoạt động nghệ thuật tại quê hương và là một trong số những tác giả có công đặt nền móng cho văn học Cách mạng ở miền Nam
– Từ 1954 – 1964, Thanh Hải giữ chức vụ cán bộ tuyên huấn
– Từ 1964 – 1967, Thanh Hải phụ trách báo Cờ giải phóng của Huế, sau đó trở thành Ủy viên ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam
– Sau năm 1975, Thanh Hải ông được bầu làm Tổng thư ký Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Ủy viên thường vụ của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam, đồng thời giữ vị trí Ủy viên ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam
Sự nghiệp văn học:
Trong suốt 50 năm, sự nghiệp sáng tác của Thanh Hải được ghi nhận với 5 tập thơ:
– Tập thơ “Những đồng chí trung kiên” xuất bản năm 1962
– Tập thơ “Huế mùa xuân” xuất bản năm 1970 (tập 1) và 1972 (tập 2)
– Ánh Mắt, xuất bản năm 1956
– Tập thơ “Mưa xuân trên đất này” xuất bản năm 1982
Phong cách và nguồn cảm hứng trong sáng tác:
– Cảm hứng sáng tác của Thanh Hải thường lấy từ vẻ đẹp của thiên nhiên và tình yêu với cuộc sống
– Phong cách thơ Thanh Hải: ngôn ngữ giàu tính gợi hình, nhạc điệu, chan chứa cảm xúc chân thành. Chất liệu sử dụng để sáng tác rất bình dị, gần gũi nhưng vẫn đậm chất tính triết lý về cuộc đời, hướng về tình yêu cuộc sống tha thiết
2. Tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ
a. Hoàn cảnh sáng tác Mùa xuân nho nhỏ
– Bài thơ được viết vào tháng 11 năm 1980 trong thời kỳ đất nước đã thống nhất và đang trên đà xây dựng cuộc sống mới giữa vô vàn khó khăn, thử thách.
– Thanh Hải sáng tác “Mùa xuân nho nhỏ” không đầy một tháng trước khi qua đời vì bệnh nặng và nhận điều trị tại bệnh viện Bạch Mai. Vì vậy, có thể nói, bài thơ như một lời tâm niệm chân thành của tác giả, gửi gắm triết lý về lẽ sống cao cả, đẹp đẽ đến thế hệ sau
b. Ý nghĩa nhan đề tác phẩm
– Trong tiêu đề “Mùa xuân nho nhỏ”, tính từ “nho nhỏ” được tác giả sử dụng nhằm cụ thể hóa, hữu hình hóa hình tượng “mùa xuân” và mang đến nhiều tầng ý nghĩa khác nhau:
Lớp nghĩa thực: nhắc đến mùa xuân của đất trời, của tự nhiên, mang tính chu kỳ, tuần hoàn theo thời gian
Lớp nghĩa ẩn dụ: mùa xuân chính là mong muốn, khát vọng, lí tưởng sống của tác giả. Thanh Hải mong muốn cống hiến tất cả những gì đẹp đẽ nhất, tinh túy nhất cho cuộc đời, cho quê hương và đất nước.
c. Bố cục nội dung
Bài thơ gồm 6 khổ thơ được chia thành 3 phần nội dung, cụ thể như sau:
– Phần một: Phân tích khổ 1 bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Cảm xúc của tác giả trước khung cảnh mùa xuân của thiên nhiên
– Phần hai: Phân tích khổ 2,3 bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Cảm nhận của tác giả trước mùa xuân của đất nước
– Phần ba: Phân tích khổ 4, 5, 6 – Khát vọng sống và lý tưởng sống cao đẹp bên trong tác giả.
Tham khảo thêm: Soạn văn 9
II. Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
1. Phần 1: phân tích khổ 1 – Cảm xúc của tác giả trước khung cảnh mùa xuân của thiên nhiên
Mở đầu bài thơ gợi ra một khung cảnh mùa xuân thiên nhiên trong trẻo và tràn đầy sức sống:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.”
Tác dụng của nghệ thuật đảo ngữ động từ “mọc” lên đầu câu:
– Nghệ thuật đảo ngữ giúp người đọc dễ dàng liên tưởng về hình ảnh “một bông hoa” tràn đầy sức sống đang vươn mình lên từ từ khỏi mặt nước để đón nhận và hòa mình vào không khí của mùa xuân
– Động từ được đảo lên đầu câu thơ đã tô đậm thêm sức sống mạnh mẽ đến khác thường của “một bông hoa” trên “dòng sông xanh” mà nhà thơ cảm nhận được
Vẻ đẹp của bức tranh xuân xứ Huế được cảm nhận qua hình ảnh “dòng sông xanh”, “bông hoa tím biếc” và “con chim chiền chiện”:
– Những sự vật được tác giả liệt kê đều là những tín hiệu đặc trưng, báo hiệu cho mùa xuân xứ Huế đã đến
– Bức tranh mùa xuân thiên nhiên sinh động với không gian cao rộng, mênh mông của bầu trời dài rộng của “dòng sông xanh”; âm thanh rộn rã vui tươi từ tiếng hót của những chú “chim chiền chiện”; màu sắc rực rỡ với sự kết hợp giữa màu “xanh” của dòng sông, “tím biếc” của hoa
– Sử dụng những gam màu tươi tắn “xanh, tím”, tác giả đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên mùa xuân đầy màu sắc, trong trẻo và tươi sáng
– Sử dụng từ cảm thán “ơi” và “chi”, tác giả đã khiến người đọc liên tưởng đến một chất giọng ngọt ngào, thân thương của một người con xứ Huế, đang bày tỏ cảm xúc trước thiên nhiên
Trước vẻ đẹp của mùa xuân đất trời, bất kỳ ai cũng phải cảm thấy ngỡ ngàng, xao xuyến và mong muốn sở hữu:
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.”
Tác giả sử dụng hình ảnh giàu sức gợi “giọt long lanh rơi” để biểu thị:
– Có thể là giọt mưa xuân hay giọt sương mai trong những buổi sáng, long lanh dưới ánh nắng xuân dịu nhẹ
– Xét trong mối tương quan với câu thơ trước, có lẽ “giọt” ở đây chính là tiếng hót của “con chim chiền chiện”. Tiếng hót ấy vang vọng nhưng không hòa vào không gian mà cô đọng lại thành từng “giọt” trong vắt và “long lanh”. Thứ “giọt” ấy đẹp và thuần khiết đến nỗi đã khơi dậy khao khát sở hữu của nhân vật trữ tình. Nó cũng giải thích cho hành động vội vàng đưa đôi bàn tay để hứng lấy của nhân vật. Tiếng chim sau cách dùng từ của tác giả đã chuyển từ cảm nhận bằng thính giác thành cảm nhận bằng thị giác, sau đó là xúc giác. Ở đây, tác giả đã áp dụng thành công nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, mang đến một trải nghiệm mới cho người đọc
– Điệp từ “tôi” hai lần kết hợp với hành động “hứng” cho thấy sự trân trọng của thi nhân trước vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên. Đồng thời, thể hiện sự tận hưởng, chiếm lĩnh và hòa mình với mùa xuân của nhân vật trữ tình
=> Sử dụng hình ảnh sinh động, nghệ thuật chuyển đổi cảm giác cùng một chút chất nhạc, tác giả đã phác họa được một bức tranh mùa xuân xứ Huế với đầy đủ cả màu sắc, hình ảnh, âm thanh. Qua đó, bộc lộ được cảm xúc ngây ngất trước vẻ đẹp của mùa xuân của thiên nhiên, niềm say xưa và khao khát hòa mình với thiên nhiên đất trời của nhân vật trữ tình.
2. Phần 2: Phân tích khổ 2, 3 Mùa xuân nho nhỏ – Cảm nhận của tác giả trước mùa xuân của đất nước
Từ vẻ đẹp của mùa xuân của thiên nhiên đất trời, tác giả đã mở rộng tầm nhìn để khám phá, ngợi ca vẻ đẹp của mùa xuân đất nước:
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao
Ðất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Ðất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.”
Mùa xuân đất nước được tác giả cảm nhận qua hình ảnh “người cầm súng” và “người ra đồng”:
– Hình ảnh “người cầm súng” và “người ra đồng” biểu trưng cho hai đối tượng thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược quan trọng của đất nước ta trong thời kỳ kháng chiến. Đó là nhiệm vụ chiến đấu ở tiền tuyến và lao động xây dựng kinh tế hậu phương
– Hình ảnh “người cầm súng” kết hợp với hình ảnh “lộc giắt đầy trên lưng” giúp liên tưởng đến vòng lá ngụy trang của người chiến sĩ. Vào mùa xuân, những vòng lá nảy nở thành những chồi non, lộc biếc, cùng người chiến sĩ ra trận để bảo vệ tổ quốc.
– Hình ảnh “người ra đồng” kết hợp với hình ảnh “lộc trải dài nương mạ” giúp liên tưởng đến khung cảnh màu mỡ của những cánh đồng, được chăm bón bởi những bàn tay khéo léo gieo trồng của những người nông dân nơi hậu phương
Tác dụng của điệp từ “mùa xuân” và “lộc”:
– Điệp từ giúp gợi lên quang cảnh mùa xuân đất trời tươi đẹp với những lộc non đâm chồi
– Ở một tầng nghĩa khác, biện pháp điệp từ là cách tác giả miêu tả thành quả của nhân dân ta trong công cuộc dựng xây hậu phương vững chắc để góp phần bảo vệ tổ quốc
– Điệp từ “tất cả” cùng với những từ láy “hối hả”, “xôn xao” đã làm tăng nhịp điệu câu thơ, tạo nên cảm giác về một nhịp sống sôi động và hối hả, tăng tính cấp bách trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước
Tác giả đã bày tỏ niềm tự hào và niềm tin vào tương lai tươi sáng khi đứng trước mùa xuân tươi đẹp của đất nước:
“Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.”
– Sử dụng hệ thống tính từ “vất vả”, “gian lao”, tác giả đã đúc kết ngắn gọn chặng đường 4000 năm dựng nước và giữ nước qua 4 câu thơ, với biết bao khó khăn, thăng trầm và thử thách. Để có được mùa xuân trong hòa bình như hôm nay, đất nước ta đã phải trải qua biết bao đau thương và mất mát, chứng kiến biết bao hy sinh của ông cha trong lịch sử. Song chính lịch sử 4000 năm ấy đã khẳng định ý chí, sức mạnh và bản lĩnh của dân tộc ta, giúp ta thêm trân trọng mùa xuân trong nền hòa bình hiện tại
Những liên tưởng và ý nghĩa sâu sắc được tác giả thể hiện qua hình ảnh so sánh “đất nước như vì sao”:
– Hình ảnh “vì sao” khiến người đọc dễ dàng liên tưởng đến nguồn sáng lấp lánh từ vũ trụ, tồn tại vĩnh hằng cùng thời gian
– Khi so sánh “đất nước” với “vì sao” tác giả muốn nhắc đến hình ảnh dân tộc Việt Nam ta trong suốt 4000 năm lịch sử. Nhân dân ta từ trong bóng tối của ách nô lệ, đô hộ từ thực dân và đế quốc đã mạnh mẽ, kiên cường đứng lên phá tan xiềng xích, thoát khỏi phong kiến, thực dân để tự mình tỏa sáng như những vì sao
– Thêm vào đó, ánh sao cũng thể hiện niềm tin của tác giả vào một tương lai tươi sáng, rộng mở của quê hương, đất nước trong không khí toàn dân cùng nhau xây dựng và đổi mới đất nước mạnh mẽ
– Sử dụng điệp từ “đất nước” đi liền với cấu trúc song hành “đất nước bốn ngàn năm… đất nước như vì sao…” có tác dụng diễn tả sự vận động đi lên của đất nước qua các thời điểm trong lịch sử và khẳng định sự trường tồn của đất nước là vĩnh cửu
– Sử dụng cụm từ “cứ đi lên” tác giả đã nhấn mạnh ý chí, lòng quyết tâm và niềm tin sắt đá của mình vào tương lai tươi sáng của đất nước và cả dân tộc về tương lai
=> Sử dụng giọng thơ vừa tha thiết vừa trang trọng cùng nhịp điệu sôi nổi, tác giả đã gói trọn niềm yêu mến tự hào, tin tưởng vào tương lai tươi sáng của đất nước, nhân dân
3. Phần 3: Phân tích khổ 3, 4, 5 bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Khát vọng sống và lý tưởng sống cao đẹp bên trong tác giả
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến.
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.
Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế…”
Từ những cảm xúc hạnh phúc đến niềm tin vào tương lai tươi sáng của đất nước, Thanh Hải đã viết ra những lời ước nguyện, khao khát thật thiết tha, cảm động:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến.”
– Sử dụng đại từ “ta” giúp bộc lộ một trực tiếp tâm niệm của thi nhân trước vẻ đẹp mùa xuân của thiên nhiên và mùa xuân của đất nước
– Sử dụng điệp cấu trúc ngữ pháp “Ta làm… Ta nhập…” đặt ở vị trí đầu của ba câu thơ trong phần 3 đã khiến cho nhịp điệu thơ trở nên nhẹ nhàng hơn nhịp điệu nhộn nhịp trong khổ thơ trước. Từ đó, khiến cho câu thơ như một lời thủ thỉ tâm tình về ước nguyện hóa thân, hiến dâng cho quê hương, đất nước của nhà thơ.
Sử dụng hệ thống hình ảnh gần gũi “con chim hót’’, “cành hoa”, “nốt trầm xao xuyến” để thể hiện nhiều cảm xúc, khát vọng bên trong tác giả:
– Các sự vật nhân vật trữ tình lựa chọn để hóa thân đều hết sức giản dị, nhỏ bé. Tuy vậy, chính mong muốn bình thường này đã cho thấy ước nguyện có phần khiêm nhường, cao quý của thi nhân.
– Những hình ảnh tiếng chim và cành hoa có sự đối xứng chặt chẽ với những hình ảnh mở đầu của bài thơ. Điều đó đã khẳng định một lẽ tự nhiên, tất yếu: Tiếng hót của chim vốn để làm vui cho đời; hương sắc của hoa góp phần điểm sắc cho mùa xuân thêm đằm thắm; nốt trầm là nốt nhạc không thể thiếu trong bất kỳ bản hòa ca nào, giúp tạo sự lắng đọng cho giai điệu của mùa xuân
– Các hình ảnh còn gợi cho ta liên tưởng về mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa con người với thiên nhiên, quê hương, đất nước
=> Dù đứng trước bệnh tật và cái chết cận kề nhưng khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp mùa xuân, tác giả chỉ mong muốn cống hiến thật nhiều cho đời, cho đất nước và theo đuổi lẽ sống đó đến hết đời.
Từ khát vọng sống cao quý, mong muốn được cống hiến cho đời, cho cộng đồng, tác giả đã nâng lên thành một lí tưởng sống cao cả. Lí tưởng sống được thể hiện rõ qua 4 câu thơ:
“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.”
– Sử dụng hình ảnh ẩn dụ đặc sắc “mùa xuân nho nhỏ” nói lên lý tưởng sống cao đẹp của nhà thơ: Trong muôn vạn vật tươi đẹp đã chứng kiến, tác giả chỉ ao ước được làm một “mùa xuân nho nhỏ”, góp chút vẻ đẹp của mình để tô điểm thêm cho mùa xuân lớn của dân tộc.
Ý nghĩa của việc sử dụng từ láy “nho nhỏ”:
– Cái “nho nhỏ” mà tác giả nói đến cho thấy nhận thức của tác giả về vai trò của bản thân trong cộng đồng. Khi càng biết nhiều, càng mở rộng tầm hiểu biết thì tác giả lại cảm thấy bản thân mình nhỏ bé. Với tình yêu quê hương đất nước nồng nàn, mong muốn của tác giả chỉ là góp một “mùa xuân nho nhỏ” của bản thân vào mùa xuân lớn của cả dân tộc – một ước nguyện khiêm tốn và giản đơn
– Có lẽ nhà thơ chỉ muốn góp những gì đẹp đẽ và tinh túy nhất của cuộc đời mình cho mùa xuân đất nước
– Sử dụng tính từ “lặng lẽ” đã khắc họa vẻ đẹp trong sáng, thuần khiết của một tâm hồn, lối sống và nhân cách: Mùa xuân của tác giả không có sự ồn ào, khoa trương, nhộn nhịp mà chỉ lặng lẽ, âm thầm hiến dâng. Mong muốn dâng hiến mùa xuân cho đời được thực hiện một cách tự nguyện, tác giả không đòi hỏi bất kỳ sự đền đáp nào. Điều đó là minh chứng rõ ràng cho lối sống đẹp đẽ, khiêm nhường và trong sáng nhất mà con người cần hướng tới trong công cuộc phát triển đất nước
– Sử dụng biện pháp nghệ thuật điệp cấu trúc ngữ pháp “Dù là… Dù là…”, kết hợp cùng hình ảnh tương phản “tuổi hai mươi” và “khi tóc bạc” tác giả như biến câu thơ trở thành một lời hứa, lời tự nhủ với chính mình trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Hơn nữa, qua phép nghệ thuật, tác giả muốn ngầm khẳng định sự tồn tại bền vững của lí tưởng sống cống hiến, hi sinh và khát vọng sống cao đẹp
=> 4 câu thơ là lời tổng kết của nhà thơ về toàn bộ cuộc đời mình với các mốc thời gian khác nhau. Đó là một cuộc đời đẹp, xứng đáng để chúng ta suy ngẫm, học tập và noi theo các triết lý sống trong đó
Kết thúc bài thơ, tác giả đã khép lại vẻ đẹp mùa xuân trong giai điệu ngọt ngào, êm dịu của làn điệu dân ca trữ tình xứ Huế:
“Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.”
Đặc trưng của giai điệu dân ca xứ Huế để thể hiện cảm xúc tận sâu bên trong tác giả:
– Câu “Nam ai” là khúc nhạc buồn thương. Khúc hát phản chiếu con đường đầy hi sinh, gian khổ mà đất nước đã trải qua trong 4000 năm
– Câu “Nam bình” là khúc nhạc êm ái, dịu ngọt. Câu hát giúp gợi ra bức tranh khung cảnh mùa xuân của hiện tại, thanh bình và no ấm
– “Nhịp phách tiền” là điệu nhạc rộn ràng đặc trưng của xứ Huế (quê hương của tác giả). Nhịp phách đã thay nhân vật trữ tình đã khép lại bài thơ với âm hưởng của một cuộc sống mới, tràn trề sức sống của dân tộc
=> Kết thúc bài thơ là tình yêu đời, yêu cuộc sống trỗi dậy thật mãnh liệt. Tình cảm ấy đã trở thành khúc hát tâm tình đầy cảm động, cao quý và đáng trân trọng như chính cuộc đời của tác giả.
III. Tổng kết chung phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
1. Về nội dung
Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” đã tái hiện thành công vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân đất nước qua góc nhìn của nhân vật trữ tình. Qua đó làm nổi bật triết lý sống cao đẹp là sẵn sàng dâng hiến cuộc đời mình cho đất nước, sống vì cộng đồng, tập thể của tác giả.
2. Về nghệ thuật
– Sử dụng thể thơ năm chữ và cách gieo vần liền giữa các khổ thơ góp phần tạo ra sự liền mạch của cảm xúc.
– Toàn bài thơ sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh thơ giản dị, trong sáng nhưng vẫn sinh động và giàu sức gợi.
– Bài thơ diễn tả cảm xúc chân thành, tha thiết của tác giả, trở thành tiếng lòng của nhà thơ Thanh Hải với đất nước và với cuộc đời.
Trên đây là bài phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của tác giả Thanh Hải mà HOCMAI muốn chia sẻ đến các bạn học sinh. Hy vọng các bạn đã có đủ kiến thức để chuẩn bị cho kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 sắp tới. Chúc các bạn ôn luyện hiệu quả để đón một kỳ thi thật thành công!
Tham khảo thêm: