Phân tích Thúy Kiều báo ân báo oán (trích tác phẩm Truyện Kiều) – HOCMAI

0
19157
phan-tich-kieu-bao-an-bao-oan-ava

Nằm trong tác phẩm “Thúy Kiều” bất hủ của nền văn học Việt Nam, đoạn trích “Kiều báo ân báo oán” là một thiên văn chương khắc họa rõ tình nghĩa rạch ròi của nhân vật Thúy Kiều. Cùng HOCMAI tìm hiểu và phân tích về đoạn trích này nhằm hiểu thêm về nhân vật Thúy Kiều cũng như cách hành văn độc đáo, đặc sắc của đại thi hào Nguyễn Du từ đó giúp cho các em có thêm tài liệu học tập về các tác phẩm ôn thi vào 10 môn Văn.

 

Tham khảo thêm:

Phân tích chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh

Phân tích Mã Giám Sinh mua Kiều

 

I. Thông tin về đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán

1. Vị trí, thể loại của đoạn trích

a, Đoạn trích “Thúy Kiều báo ân báo oán” nằm ở phần nào của “Truyện Kiều”?

– Đoạn trích “Thúy Kiều báo ân báo oán” nằm ở phần II của tác phẩm, mang tên “Gia biến và lưu lạc”. Với mạch truyện kể về cuộc đời gian truân, bất hạnh của Thúy Kiều sau khi bán mình chuộc cha, trích đoạn thơ trên tập trung miêu tả cảnh Kiều trả ân, báo oán. Trước là đền ân nghĩa những người cưu mang, giúp đỡ bản thân trong lúc khó khăn, sau là trừng trị những kẻ tàn ác hãm hại nàng trong bước đường lưu lạc. 

Để hiểu thêm chi tiết về tác phẩm Truyện Kiều, các bạn có thể xem thêm tại Phân tích tác phẩm Truyện Kiều tác giả Nguyễn Du

b, Thúy Kiều báo ân báo oán thuộc thể loại gì?

– Là một phần trong tác phẩm “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du, đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán được viết theo thể thơ lục bát, bản gốc được viết bằng chữ Nôm. 

– Được viết theo lối thơ lục bát dưới dạng văn vè dân gian, tác phẩm Truyện Kiều nhờ thế được dân chúng lúc bấy giờ đón nhận nhiệt tình 

2. Thuật lại đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán

Từ khi bán mình cho Mã Giám Sinh, Kiều phải trải qua “hết nạn nọ tới nạn kia”, chịu đủ bao tủi nhục đắng cay. Có những lúc nàng muốn đầu hàng với số phận: “Biết thân chạy chẳng khỏi trời – Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh”.

Lần thứ hai rơi vào cảnh lầu xanh, đây là lần Thúy Kiều chới với nhất, nàng đã gặp Từ Hải. Đây là một bước ngoặt lớn trong cuộc đời đầy hẩm hiu, gian khổ của cô con gái lớn nhà họ Vương.

Người anh hùng Từ Hải – “đầu đội trời, chân đạp đất” đã cảm thương cho số phận của nàng Kiều, đem lòng yêu mến nàng. Từ Hải đã giải thoát Kiều khỏi thanh lâu dơ bẩn và cưới nàng làm vợ. Từ vị trí thấp hèn của một con hát nơi chốn lầu xanh, Thúy Kiều trở thành “mệnh phụ phu nhân” đầy quyền lực.

Với những quyền lực nắm trong tay, Kiều nghiễm nhiên trở thành một vị “quan tòa” thực thi công lý cho chính bản thân. Nàng rạch ròi phân minh, tuân theo đạo lý “ơn đền oán trả”.

Tại công đường, nàng Kiều đã đền ơn, trả nghĩa những người đã từng cưu mang giúp đỡ nàng, đặc biệt là Thúc Sinh, người đã cứu nàng khỏi chốn thanh lâu ngày trước. Đồng thời, Kiều cũng trừng trị, báo oán những kẻ bất nhân, tàn ác luôn rắp tâm hại nàng. Tiêu biểu phải kể đến Hoạn Thư.

Hoạn Thư là một người đàn bà ranh ma xảo quyệt, một con người “quỷ quái tinh ma” đã đày đọa Kiều, ép nàng trở thành người ở, phải “đọc sách viết kinh” nơi gác Quan Âm.  

Dưới ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Du, người đọc có thể thấy được tấm lòng vị tha, nhân nghĩa của nàng Kiều cùng ước mơ về lẽ phải, về công lý của nhân dân. Đồng thời chứng minh rằng, con người khi bị áp bức đến đường cùng sẽ vùng lên vì cán cân công lý, sống đúng với châm ngôn “Ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác.” 

3. Bố cục đoạn trích

Theo nội dung, đoạn trích “Thúy Kiều báo ân báo oán” được chia thành 2 phần bao gồm: 

– Phần một: 12 câu thơ đầu: Thúy Kiều trả ân, đền nghĩa ân tình Thúc Sinh

– Phần hai: 22 câu thơ còn lại: Thúy Kiều báo oán, trừng trị Hoạn Thư

 

II. Phân tích Thúy Kiều báo ân báo oán

1. Thúy Kiều trả ân, đền nghĩa ân tình Thúc Sinh

Thúy Kiều gặp gỡ Thúc Sinh sau nhiều năm xa cách để tâm sự về ơn nghĩa cũ khi chàng giúp nàng buổi hoạn nạn:

– Dù lâu ngày không gặp, Thúy Kiều vẫn nghĩ tới việc đền ơn người đã có ân với mình trước. Điều này thể hiện tính cách nhân hậu, nhớ ơn của nàng. 

– Người đầu tiên được Thúy Kiều cho người “mời” là Thúc Sinh: “Cho gươm mời đến Thúc lang”. Lúc này Kiều đã có địa vị như một vị “nhất phẩm phu nhân”, được ra lệnh cho gia nô, kẻ hầu người hạ nhưng vẫn xưng hô một tiếng “Thúc lang”, đủ thấy sự trân trọng người cũ của nàng. 

– Trước công đường uy nghiêm, với những “gươm lớn giáo dài”, Thúc Sinh hoảng sợ, bước đi run rẩy. Qua câu thơ: “Mặt như chàm đổ mình dường dẽ run” tác giả đã giúp người đọc dễ dàng liên tưởng đến hình ảnh của một người đàn ông hèn nhát. Mặt mất hết thần sắc, xanh như tàu lá, còn người thì run như chim dẽ phay phẩy đuôi. 

⇒ Hình ảnh được miêu tả hoàn toàn phù hợp với tích cách được khắc họa trước đó của Thúc Sinh: một chàng trai tốt bụng, đa tình, yêu và dám yêu khi chuộc nàng ra khỏi chốn lầu xanh, nhưng lại nhu nhược, không đủ dũng khí để bảo vệ người mình yêu.

Kiều gọi Thúc Sinh vừa để trả ơn những ân tình trong ngày tháng qua, cũng để tâm sự gợi lại những chuyện cũ một thời:

Nàng rằng: “Nghĩa nặng nghìn non,

Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không?

Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,

Tại ai há dám phụ lòng cố nhân?…”

– Kiều đưa lời dạm hỏi chàng Thúc Sinh còn nhớ người ngày nào đầu ấp tay gối, nâng khăn sửa túi cho chàng ở Lâm Tri, phủ cũ nhà chàng hay không? Lời hỏi thăm ân cần này cũng giúp trấn an chàng, một người đàn ông nhu nhược, sợ hãi trước cảnh “gươm lớn giáo dài” uy nghiêm, tráng lệ.

– Câu nói “Nghĩa nặng nghìn non” thể hiện sự trân trọng, không thể quên hành động đầy trách nhiệm và nghĩa hiệp của Thúc Sinh khi nàng đang trong cảnh hoạn nạn. Chàng đã cứu nàng khỏi lầu xanh, giúp nàng thoát khỏi ô nhục đớn hèn.

– Dù có đôi chút tủi hờn, buồn giận khi nhớ về những ngày tháng phải làm tôi tớ, “khi gác viết kinh” tại nhà Hoạn Thư, nhưng nàng không phủ nhận những hạnh phúc khi ở cạnh Thúc Sinh. Hơn nữa, Kiều hiểu được Thúc Sinh rất yêu nàng. 

– Hai chữ “người cũ” giúp người đọc thấy được sắc thái thân mật, cùng tấm lòng biết ơn chân thành của nàng Kiều. 

⇒ Sử dụng những từ ngữ như “nghĩa nặng nghìn non” “cố nhân” hay “người cũ” Nguyễn Du đã thể hiện Kiều là người đề cao tình nghĩa, bởi trong quá khứ đã có một đoạn thời gian làm vợ lẽ, nên có những kỉ niệm gắn bó không sao quên được.

Trong lời tâm sự với Thúc Sinh, Kiều sử dụng rất nhiều từ hán việt như “nghĩa”, “tòng”, “phụ”, “cố nhân”

– Thể hiện cái tài và học thức của Kiều, khi đại diện cho một vị “phu nhân” xứng thực, với sự hiểu biết về những khái niệm đạo đức thời phong kiến như chữ “nghĩa”, chữ “tòng” 

– Nghĩa ở đây là những ơn nghĩa của Thúc Sinh đối với Kiều, là nghĩa vụ của Kiều với Thúc Sinh như một người vợ. 

– “Tòng” là tam tòng tứ đức, một tiêu chuẩn của phụ nữ có chồng thời xưa. 

– Thúy Kiều sử dụng điển cố Sâm Thương mang đậm tính ước lệ tượng trưng. Kiều băn khoăn rằng vì sao Sâm và sao Thương không thể gặp mặt như mình với Thúc Sinh; một cặp đôi mãi chia xa chẳng cách tương phùng. 

⇒ Cách nói trang trọng và đầy học thức này thể hiện sự tôn trọng của Kiều với chàng thư sinh họ Thúc. Đây là cách nói chuyện tâm sự thể hiện của một người “người có chữ”.

⇒  Người đọc có thể thấy Thúy Kiều như một người đề cao ân nghĩa thủy chung, khi nàng khẳng định tình nghĩa của Thúc Sinh với mình là sâu nặng, vô cùng to lớn. Với Kiều, Thúc Sinh là cố nhân, là người cũ không thể phụ lòng. 

⇒ Qua cách sử dụng từ của Nguyễn Du, hình ảnh Thúy Kiều được gợi lên là một người luôn nhớ về những ân nghĩa, tình cảm sâu nặng. Lời nói của nàng cho thấy Kiều luôn nhớ tới tấm lòng cùng sự giúp đỡ của Thúc Sinh trong buổi hoạn nạn năm nào. 

Thúy Kiều ban cho Thúc Sinh hậu hĩnh, với những gấm vóc lụa là, vàng bạc đầy rương:

“Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân.

Tạ lòng để xứng báo ân gọi là.”

– Khi Thúc Sinh yêu nàng Kiều, muốn chuộc nàng khỏi chốn lầu xanh, Kiều một phần muốn thoát khỏi cảnh “sống làm vợ khắp người ta”, một phần có tình ý với chàng nên nàng đã nhận làm vợ lẽ Thúc Sinh.

– Tuy có những ngày tháng tạm yên ổn nhưng vì gắn bó với chàng thư sinh nhu nhược này, Kiều phải trải qua những ngày khốn khổ như tôi tớ khi rơi vào tay vợ cả Thúc Sinh – Hoạn Thư. 

– Nàng thấu hiểu cho Thúc Sinh khi không ngăn cản được người vợ cả đày đọa mình, dù yêu nhưng không đủ sức bảo vệ nàng. Kiều cho rằng, những nỗi đau nàng phải chịu đựng đều do một chữ “ghen”, là do một tay người đàn bà “quỷ quái tinh ma” tạo ra. 

– Thúy Kiều không oán trách chàng mà ban tặng thật nhiều gấm vóc, tiền bạc: “Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân”. Đây là hành động chứng tỏ nàng là người trọng ân nghĩa thủy chung, trước sau như một. Dù nay đã giàu sang phú phý, trở thành mệnh phụ phu nhân nhưng không vì thế mà quên đi “nghĩa nặng nghìn non”. 

– Lễ vật báo ơn của nàng thật hậu nhưng đối với Thúy Kiều, những gấm vóc, vàng bạc này còn chưa xứng với những gì Thúc Sinh đã giúp mình trong cơn hoạn nạn. Đó chỉ được xem như “Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là”, coi như để dành dùng tạ lòng biết ơn, tạm coi như báo ân tình cũ. 

⇒ Thúy Kiều là người hết sức khiêm nhường, công tư tách bạch. Nàng không “giận cá chém thớt”, không “chỉ cây dâu mắng cây hòe” mà phân định rạch ròi ai là người sai người đúng. Những lễ vật hậu hĩnh nàng đưa Thúc Sinh cho thấy trái tim nhân hậu, tấm lòng thủy chung, luôn ghi nhớ những ơn nghĩa của người đưa tay giúp Kiều trong buổi gian khó, đặc biệt là chàng Thúc. 

Khi tâm tình về tình xưa nghĩa cũ, Kiều cũng không quên đả động tới Hoạn Thư: 

– Dù đang tạ ơn với Thúc Sinh, nàng vẫn không quên nhắc tới Hoạn Thư, cùng những câu từ dự đoán trước cho sự báo oán của nàng dành cho người phụ nữ “quỷ quái tinh ma” này. 

– Hoạn Thư đã gây ra cho nàng bao nhiêu tai ương, khốn khổ. Vết thương lòng mà người phụ nữ này gây ra cho nàng Kiều vẫn còn hằn sâu trong kí ức, làm nàng không chỉ đau đớn về thể xác mà còn đày đọa về tinh thần. 

Nàng có ý trả oán và nói thẳng với Thúc Sinh về những gì Hoạn Thư đã gây ra cho mình: 

“Vợ chàng quỷ quái tinh ma,

Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau.

Kiến bò miệng chén chưa lâu,

Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa.”

– Kiều sử dụng cách nói bình dân, sâu cay để nói về người phụ nữ tai quái này; khác với lối nói chuyện trang trọng, lịch sự khi bình về ân nghĩa của Thúc Sinh. 

– Sử dụng câu từ bình dị và nhiều thành ngữ như “kẻ cắp bà già gặp nhau”, “kiến bò miệng chén”, tác giả đã cho thấy rõ thái độ xem thường và khinh rẻ Hoạn Thư của Kiều. Hẳn trong lòng nàng vẫn còn oán giận những gì mà người phụ nữ quỷ quái tinh ma này làm với mình. 

– Lời chốt hạ đầy dứt khoát “Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa” hứa hẹn về cuộc báo oán, đòi lại công bằng của Kiều. Đó cũng là mong muốn xã hội vận hành theo đúng quy luật “ở hiện gặp lành, ác giả ác báo”. Kiều tự tin có thể thay trời hành đạo, trở thành quan tòa cho chính cuộc đời mình.

⇒ Những lời lẽ đanh thép của Kiều mang một thái độ bất bình. Mục đích để Thúc Sinh biết nàng có ý định báo oán Hoạn Thư. Vỏ quýt dày có móng tay nhọn, dao sắc chặt đay rối, Hoạn Thư có tinh ma cỡ nào cũng phải nhận sự trừng phạt từ nàng. 

⇒ Thúy Kiều không chỉ là người trọng nghĩa, với trái tim nhân hậu thuần lương, mà còn là người tự biết đứng lên bảo vệ mình và đòi lại công bằng cho chính bản thân. Nói với Thúc Sinh về dự định báo oán Hoạn Thư không phải để chàng cầu xin khoan thứ, mà để cho chàng hiểu lý do tại sao Kiều lại báo oán Hoạn Thư, một người quỷ kế đa đoan, ranh ma tinh quái.

2. Thúy Kiều báo oán, trừng trị Hoạn Thư

Thúy Kiều gặp Hoạn Thư nhưng đã ở vị thế khác nhau, trở thành người xét xử cho những tủi nhục, đớn đau mà Hoạn Thư gây ra cho nàng: 

“Thoắt trông nàng đã chào thưa

“Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!”

– Kiều và Hoạn Thư đã đứng ở hai vị trí khác nhau. Kiều đã trở thành phu nhân nhất phẩm, là người ở vị thế cao hơn so với Hoạn Thư. Kiều cho gọi Hoạn Thư tới nhằm xét xử và vấn tội, báo oán những căm giận, bất bình mình đã phải chịu do người đàn bà quỷ quái tinh ma này gây ra. 

– Kiều đã có thái độ mỉa mai đầy sâu cay bởi những tháng ngày “kiến bò miệng chén”, luẩn quẩn trong sự ghen tuông của Hoạn Thư vẫn còn rõ mồn một trong tâm trí nàng. 

– Kiều vẫn gọi Hoạn Thư là tiểu thư, đưa lời chào thưa, giữ phép cư xử lịch sự, mặc cho bao vùi dập, hành hạ của Hoạn Thư. Lời “chào thưa” cùng danh xưng “tiểu thư” mà Kiều dành cho Hoạn Thư mang một nét mỉa mai, châm chọc vô cùng. 

– Người phụ nữ vốn là vợ lẽ của chồng, với địa vị là kỹ nữ thấp hèn từng phải chịu khổ nhục dưới tay mình, nay lại trở thành phu nhân nhất phẩm, đứng trước công đường hiên ngang, gươm lớn giáo dài. Mình lại thành người có tội, mặc người xử trí; hẳn tiểu thư họ Hoan không thể ngờ tới sẽ có ngày hôm nay. 

⇒ Cả hành động cùng lời nói của Kiều đối với Hoạn Thư đều biểu thị một thái độ căm phẫn, châm chọc mỉa mai. Chỉ qua hai câu thơ, Nguyễn Du đã khắc họa sự căm phẫn của Kiều đối với Hoạn Thư, cũng như khẳng định lại công lý của đời người: nhân quả báo ứng, làm ác không có ngày lành. 

Kiều tiếp tục đay nghiến, hỏi tội Hoạn Thư; thể hiện quyết tâm trả oán trong bốn câu thơ tiếp theo:

“Đàn bà dễ có mấy tay,

Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan!

Dễ dàng là thói hồng nhan,

Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều.”

– Câu thơ như dằn ra từng tiếng, từ ngữ được lặp lại theo lối nói nhấn mạnh thể hiện sự căm tức, phẫn uất trong lòng Kiều. 

– Những từ ngữ như “dễ có”, “đời xưa”, “đời nay” hay “dễ dàng” mang sức nặng khiến kẻ đối diện phải sợ hãi về điều sắp xảy đến. 

– Câu thơ “Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều” nàng Kiều dành cho Hoạn Thư là lời cảnh báo cho những tai ương sắp xảy đến với Hoạn Thư, khiến nàng ta nhớ lại những ngày tháng xưa mình đã đối xử tệ bạc với Kiều ra sao. Dân gian từng có câu “Gieo gió gặt bão”, những điều nàng ta làm trong quá khứ, hôm nay cũng phải nhận lại bấy nhiêu điều trừng phạt mới thỏa được nỗi căm hận tích tụ trong lòng Thúy Kiều. 

– Sử dụng những thành ngữ như “kẻ cắp bà già gặp nhau”, “kiến bò miệng chén”, tác giả đã thể hiện sự thay đổi thứ bậc, vai vế giữa hai người phụ nữ. Trước mặt Hoạn Thư, nàng Kiều dùng cách nói nôm na, bình dị gần gũi với toàn dân nhưng chứa đựng sự hả hê khó dấu. 

⇒ Hành động trừng phạt kẻ bất nhân, cái ác của Thúy Kiều là đúng theo công lí của nhân dân, do vậy nó cần diễn đạt qua lời ăn tiếng nói của toàn dân chúng. Giọng điệu mỉa mai, đay nghiến của nàng cho thấy Kiều quyết tâm trừng trị người đàn bà quỷ quái tinh ma họ Hoạn. 

Đúng với nhận xét “quỷ quái tinh ma” của Kiều dành cho Hoạn Thư, người phụ nữ này đã lật ngược thế cờ, dồn Thúy Kiều vào đường khó: 

“Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,

Khấu đầu dưới trướng liệu điều kêu ca.”

– Trong cuộc đấu khẩu giữa hai người đàn bà, mà Nguyễn Du gọi là “kẻ cắp bà già gặp nhau”, Kiều đã cho phép Hoạn Thư được biện hộ, xin tha cho lỗi lầm của mình. Đây vừa là một sự tự tin vào chiến thắng trước lý lẽ của Kiều, cũng vừa thể hiện cho tấm lòng nhân hậu không tuyệt đường sống dù là bậc ác nhân của nàng.

– Sử dụng cụm từ “hồn lạc phách xiêu”, tác giả đã gợi lên một cách sinh động hình ảnh Hoạn Thư khi đứng trước công đường uy nghiêm. Nàng ta mất đi hoàn toàn dáng vẻ đanh đá, vẻ khuê các của một tiểu thư danh giá, chỉ còn biết sợ hãi trước gươm lớn giáo dài. Cùng với đó là lời hạch tội đầy cay nghiến của Kiều.

– Tuy trước mặt Kiều là Hoạn Thư tỏ ra khúm núm, sợ sệt, nhưng với bản chất tinh ma, Hoạn Thư nhưng vẫn đủ bình tĩnh và lý trí để “khấu đầu lạy lục” xin tha. 

Những điều kêu ca mà tiểu thư họ Hoạn đưa ra thực chất là để tự gỡ tội cho mình. 

“Rằng: “Tôi chút phận đàn bà,

Ghen tuông thì cũng người ta thường tình…

Nghĩ cho khi gác viết kinh,

Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.

Lòng riêng riêng những kính yêu

Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai””

– Dù khấu đầu trước trướng, quỳ gối trước Kiều, dù cho sợ sệt “hồn lạc phách siêu” thì Hoạn Thư vẫn tìm cách để “liệu điều kêu ca”, nhằm khiến Thúy Kiều mủi lòng. 

– Tiểu thư họ Hoạn đã khôn khéo xóa nhòa ranh giới đối lập giữa Thúy Kiều và mình. Ả ta nói rằng cả hai cùng là “phận đàn bà”, thế nên ghen tuông cũng được coi như là chuyện thường tình xảy ra. Lý lẽ này vô cùng xác đáng, đánh vào lòng trắc ẩn và sự thấu hiểu của Kiều. 

– Cả Kiều và Hoạn Thư, đều mang chung một tấm chồng, do vậy “chưa dễ ai chiều cho ai”. Lý lẽ này đưa ra hoàn toàn đúng đắn, từ “tội nhân”, Hoạn Thư đã lập luận mình như một “nạn nhân” của chế độ đa thê. 

Chưa hết, Hoạn Thư còn kể lại công ơn của mình đối với Kiều: 

“Nghĩ cho khi gác viết kinh,

Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.”

– Những việc này được kể ra tưởng như Hoạn Thư đã “làm ơn”, có công cho Thúy Kiều. Dù là thân vợ lẽ chung tấm chồng, Hoạn Thư vẫn rộng lượng cho phép nàng ra gác Quan Âm viết kinh niệm phật, rồi khi Kiều bỏ trốn không sai gia nô trói bắt. 

– Hoạn Thư tuyệt nhiên không hề nhắc tới những việc tủi nhục mà ả đã đày đọa Kiều năm nào, mà chỉ kể ra những điều mà Kiều phải hàm ơn mình, nhằm lấy được lý lẽ cho ả. 

– Từ tội nhân thành nạn nhân rồi thành “ân nhân”, Hoạn Thư thật sự khôn ngoan lọc lõi, đúng như danh xưng “Bề ngoài thơn thớt nói cười, bề trong nham hiểm giết người không dao.”

Cuối cùng, Hoạn Thư nhận tất cả tội lỗi về mình:

“Trót lòng gây việc chông gai,

Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng.”

– Hai câu thơ trên cho thấy sự mềm mỏng, có tiến có lùi của Hoạn Thư. Nàng ta thể hiện sự ăn năn hối lỗi, mong Kiều có thể tha thứ cho mình.

– Dáng điệu “hồn lạc phách xiêu” cùng những lời lẽ bao biện cho bản thân của Hoạn Thư rất mâu thuẫn với nhau. Nếu như đúng những gì Hoạn Thư đã thể hiện, sao nàng ta có thể biện minh và đưa ra những lý lẽ khôn ngoan, khó lòng bác bỏ đến vậy.

⇒ Đứng trước gươm lớn giáo dài, công đường uy nghiêm, nàng ta đã dùng hết những khôn ngoan lọc lõi của mình để thoát tội. Lời tự bào chữa của Hoạn Thư cho thấy nàng ta là người “sâu sắc nước đời”, hết mực khôn ngoan. 

Thúy Kiều sau khi nghe xong lời biện minh của Hoạn Thư đã có lời khen cho nàng ta, một người khôn ngoan hết mực:

“Khen cho: Thật đã nên rằng,

Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời.”

– Dù lúc đầu Kiều thốt ra những lời đay nghiến với đầy sự căm phẫn, uất ức, cũng yêu cầu mọi người ngồi lại để “xem cho rõ mặt, biết tôi báo thù”; thì nay khi nghe những lời lươn lẹo nhưng đầy lý lẽ chính đáng của Hoạn Thư, Kiều lại bình tĩnh khen một câu “Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời.” 

– Thúy Kiều hiểu được mình đã bị nàng ta “gài”. Trong cuộc đấu trí, đấu khẩu giữa “kẻ cắp và bà già”, người thua lại chính là Thúy Kiều.  

Sau khi nghe xong những lời “bào chữa” của Hoạn Thư, Thuý Kiều đã tha bổng cho nàng ta dù lúc đầu có khó xử, không biết nên trừng phạt hay tha thứ:

“Tha ra, thì cũng may đời,

Làm ra, thì cũng ra người nhỏ nhen.

Đã lòng tri quá thì nên,

Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay.”

– Dân gian có câu: “Đánh người chạy đi, không ai đánh người chạy lại”. Nếu như Hoạn Thư đã biết lỗi, bày tỏ lòng chân thành sám hối ăn năn, Kiều cũng độ lượng bỏ qua. Tha bổng Hoạn Thư thể hiện rằng Thúy Kiều là người thấu hiểu lẽ sống ở đời. Những lời của Hoạn Thư không hoàn toàn dối gian, ngoa ngoắt mà sự thật gần như vậy.

– Việc Thúy Kiều dễ dàng tha thứ cho Hoạn Thư thể hiện nàng là người có tấm lòng nhân hậu, vị tha, lối sống cao thượng, luôn sẵn sàng bỏ qua, tha thứ cho kẻ đã làm mình tổn thương sâu sắc.

– Kiều tha bổng cho Hoạn Thư có lẽ cũng do áy náy vì đã chen chân vào hạnh phúc gia đình hai người, biến Hoạn Thư thành kiếp chung chồng, phải trải qua những tháng ngày bị chồng lạnh bạc. Chồng Hoạn Thư, tức chàng Thúc Sinh cũng là người Kiều mang ơn, do vậy nàng cũng mong muốn ân nhân mình có cuộc sống êm đềm hạnh phúc, sau khi đã trải qua bao sóng gió.

⇒ Đoạn trích có kết cục khá bất ngờ với nhưng vẫn giữ được tính hợp lí theo mạch kể truyện của tác phẩm. Dù thế nào đi nữa, Kiều vẫn mang trong mình một trái tim nhân hậu, vị tha; giàu lòng trắc ẩn, nặng tình nghĩa.

III. Tổng kết

1. Giá trị nội dung của tác phẩm

Đoạn trích “Thuý Kiều báo ân báo oán” thể hiện ước mơ công lí chính nghĩa của quần chúng nhân dân lao động: con người bị áp bức đau khổ sẽ vùng lên tìm công lí, “ở hiền sẽ gặp lành”, “gieo nhân nào gặt quả nấy”.

Đoạn trích cũng cho người đọc thấy cách ứng xử khác nhau của con người khi đối mặt với cái thiện và cái ác, giữa việc báo ân và báo oán. Người đọc qua đó có thể cảm nhận được tư tưởng tình cảm, thái độ của tác giả Nguyễn Du khi đề cao, ca ngợi nét sống trọng nghĩa ân tình giữa con người với con người, lên án những điều xấu xa, độc ác.

phan-tich-kieu-bao-an-bao-oan
Sơ đồ tư duy Kiều báo ân báo oán số 1
so-do-tu-duy-thuy-kieu-bao-an-bao-oan
Sơ đồ tư duy Kiều báo ân báo oán số 2

2. Giá trị nghệ thuật của tác phẩm

– Miêu tả tâm lí nhân vật uyển chuyển, giúp người đọc hiểu thêm về tính cách nhân vật

– Xây dựng nhân vật qua ngôn ngữ đối thoại, đặc biệt là hai nhân vật Thúy Kiều và Hoạn Thư

– Sử dụng nhiều thành ngữ dân gian, từ ngữ bình dị, thân thuộc với đời sống hàng ngày. 

– Đoạn trích có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố tự sự và miêu tả. 

Trên đây là chi tiết phân tích Thúy Kiều báo ân báo oán trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du. Ngoài đoạn trích trên, các bạn học sinh hãy xem thêm các  bài phân tích chi tiết khác trong Soạn văn 9 giúp nắm vững kiến thức văn học để chuẩn bị cho các kì thi quan trọng. HOCMAI hy vọng rằng những nội dung đã cung cấp phía trên sẽ giúp bạn dễ dàng học tập môn ngữ văn và có một kì học tập thật hiệu quả.