Soạn bài Luyện nói Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ chi tiết Ngữ văn 9

0
5625
soan-bai-luyen-noi-nghi-luan-ve-mot-doan-tho-bai-tho

Tham khảo ngay bài học hướng dẫn Soạn bài Luyện nói Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ đầy đủ và chi tiết do HOCMAI biên soạn để có thể nắm vững kiến thức trong tâm về thể loại văn nghị luận này, qua đó hoàn thành tốt các bài tập nghị luận trong Ngữ văn lớp 9

 

Tham khảo thêm các bài viết:

 

I. Chuẩn bị ở nhà

Các kiến thức cần nắm vững

a) Khái niệm

Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ là trình bày các nhận xét, đánh giá của bản thân về giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ đó.

b) Bố cục của một bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ

Bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ cần có bố cục mạch lạc theo các phần sau:

  • Mở bài: Giới thiệu về đoạn thơ, bài thơ và bước đầu nêu ra nhận xét, đánh giá của mình. (Nếu là bài phân tích một đoạn thơ thì hãy nêu rõ vị trí của đoạn thơ đó trong tác phẩm và khái quát nội dung, cảm xúc của mình về nó).
  • Thân bài: Trình bày lần lượt những suy nghĩ, đánh giá của bản than về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ đó.
  • Kết luận: Khái quát ý nghĩa, giá trị của đoạn thơ, bài thơ đó.

c) Yêu cầu của một bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ

Văn bản nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ cần nêu ra được các đánh giá, nhận xét và cảm thụ riêng của cá nhân người viết. Những đánh giá, nhận xét ấy phải gắn chặt với sự phân tích, hình ảnh, bình giá ngôn từ, giọng điệu và nội dung cảm xúc của tác phẩm.

Trả lời câu hỏi trang 112 SGK ngữ văn 9 tập 2

Cho đề bài: Bếp lửa sưởi ấm một đời – Bàn về bài thơ “Bếp lửa” của nhà văn Bằng Việt. Em hãy lập dàn ý và tập trình bày bài nói của bản thân.

Gợi ý:

(1) Mở bài

Giới thiệu về tác phẩm “Bếp lửa” của Bằng Việt và ý nghĩa sưởi ấm tình bà cháu, sưởi ấm tình người và đặc biệt nhất là sưởi ấm một đời ở trong bài.

(2) Thân bài

  1. Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho dòng hồi tưởng về bà

– Hình ảnh về bếp lửa gợi sự vất vả, hy sinh của người bà: “chờn vờn sương sớm” | “ấp iu nồng đượm” mang cho ta cảm giác về một ngọn lửa cháy bập bùng ẩn hiện trong làn sương sớm mai bởi đôi tay khéo léo, bởi tấm lòng ấm áp của người bà.

– Điệp ngữ “một bếp lửa”: Tác giả muốn nhấn mạnh hình ảnh trung tâm của bài thơ, qua đó khơi gợi nguồn cảm xúc khiến tác giả nhớ về bà.

– Chữ “thương”: Thể hiện một tình cảm yêu thương, quý mến của người cháu đối với những hy sinh, sự tảo tần của bà.

  1. Những kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà gắn với hình ảnh bếp lửa

Qua hình ảnh bếp lửa, người cháu đã nhớ về những kỉ niệm tuổi thơ:

– Bếp lửa gắn liền với một thời kỳ đầy khó khăn của dân tộc:

  • Năm cháu lên bốn: Mùi khói bếp đã quá quen thuộc, nhớ về cái năm “đói mòn đói mỏi”, về hình ảnh “khô rạc ngựa gầy”.
  • Những tháng năm đói khổ mà khi nhớ về lại thấy xót xa: “Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu | Nghĩ đến giờ sống mũi vẫn còn cay”.

– Bếp lửa gắn với những tháng năm sống cùng bà:

  • Trên những cánh đồng xa , tiếng tu hú kêu gợi nhớ về những câu chuyện bà đã kể.
  • Cuộc sống sinh hoạt hàng ngày: Bà dạy cho cháu làm, Bà chăm cho cháu học.

– Bếp lửa còn được gắn tình cảm của cháu: “Nhóm bếp lửa mà nghĩ thương bà khó nhọc”, đó là ngọn lửa của tình yêu thương thiết tha dành cho bà.

– Ngọn lửa bà nhen: Chứa đựng những niềm tin, hy vọng bà truyền cho cháu.

  1. Suy ngẫm về cuộc đời người bà

– Cuộc đời của bà cũng như bao người phụ nữ Việt Nam: Cuộc đời “lận đận nắng mưa”, vất vả tảo tần lo cho con cháu suốt đời.

– Điệp từ “nhóm” được kết hợp với một loạt hình ảnh:

  • “bếp lửa ấp iu nồng đượm” → Tình cảm ấm áp của bà.
  • “niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi” → Bà dạy cho cháu biết yêu thương
  • “nồi xôi gạo mới sẻ chia chung vui” → Bà dạy cho cháu biết chia sẻ
  • “những tâm tình tuổi nhỏ” → Góp phần bồi đắp tâm hồn của cháu.

=> Từ hình ảnh về bếp lửa được bà nhen nhóm đã dạy cho cháu biết bao bài học quý giá, ý nghĩa trong cuộc sống.

– Câu thơ cuối giống như một tiếng reo: “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa”, chỉ với hình ảnh “bếp lửa” thôi mà tạo nên biết bao điều diệu kỳ, đó chính là nhờ đôi bàn tay của bà.

  1. Thực tại cuộc sống của người cháu

– Khi người cháu trưởng thành: Được đến nhiều nơi, được chứng kiến những hình ảnh của cuộc sống hiện đại như: “khói trăm tàu”, “lửa trăm nhà” với niềm say mê.

– Vẫn không quên đi những kỷ niệm khó khăn cùng bà bên “bếp lửa” chứa chan tình cảm vô bờ bà dành cho cháu.

– “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?” → Một lời nhắc nhở bản thân phải luôn ghi nhớ những năm tháng được sống cùng bà.

(3) Kết bài

Khẳng định lại vấn đề “bếp lửa sưởi ấm một đời” người.

 

II. Bài tập ôn luyện | Trang 112 SGK ngữ văn 9 tập 2

Câu 1: Phân tích ba khổ thơ cuối trong bài thơ Bếp lửa của nhà thơ Bằng Việt.

Bài thơ “Bếp lửa” là một sáng tác của nhà thơ Bằng Việt viết về chủ đề tình cảm bà cháu. Đặc biệt đến với ba khổ thơ cuối cùng của tác phẩm, tác giả đã thể hiện được những suy nghĩ về cuộc đời của bà, cũng như nỗi nhớ tác giả dành cho bà.

“Bếp lửa” được sáng tác vào năm 1963, khi Bằng Kiều đang là sinh viên học ngành Luật tại nước ngoài. Sau khi xuất bản, bài thơ được ông đưa vào trong tập thơ “Hương cây – Bếp lửa” (1968). Đây chính là tập thơ đầu tay của Bằng Việt và nhà văn Lưu Quang Vũ. “Bếp lửa” là hình ảnh trung tâm của bài thơ, chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc. Qua hình ảnh đó đó gửi gắm nhiều suy tư sâu sắc về tình cảm gia đình thiêng liêng: Tình cảm bà cháu:

soan-bai-luyen-noi-nghi-luan-ve-mot-doan-tho-bai-tho-1

Khi nhớ đến bà, người cháu sẽ nhớ đến những tháng năm tuổi thơ sống cùng bà. Mà hình ảnh bếp lửa đã trở nên quá đỗi gắn bó. Nhưng ở đây, tác giả không sử dụng “bếp lửa” mà lại sử dụng “ngọn lửa” nhằm biểu hiện một dụng ý nghệ thuật. Hình ảnh “Ngọn lửa” chính là biến thể của “bếp lửa”. Khi sử dụng hình ảnh này sẽ mang tính khái quát cao hơn. “Ngọn lửa” sẽ mang trong mình ý nghĩa biểu tượng cho tình yêu thương, là kết tinh của niềm tin bà truyền cho đứa cháu. Câu thơ “Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn” khẳng định rằng chính bà là người đã nhóm lửa, giữ lửa và truyền lửa cho cháu – Thế hệ tiếp nối. Không chỉ vậy, bà còn mang đến “Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng” nghĩa là mang đến niềm tin, niềm hy vọng về ngày mai tươi đẹp.

Người bà trong bài thơ hiện lên với hình ảnh vất vả làm việc suốt cả một cuộc đời vì con, vì cháu. Điệp từ “nhóm” kết hợp cùng với các hình ảnh “bếp lửa ấp iu nồng đượm” và “niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi” thể hiện bài học bà dạy cho cháu về lòng yêu thương, đồng cảm. Không những thế, bà còn nhóm “nồi xôi gạo mới sẻ chia chung vui” – Đó chính là sự sẻ chia mà bà đã giúp cháu nhận ra. Và điều cuối cùng, bà còn giúp nhóm dậy “những tâm tình tuổi nhỏ” – Bà đã giúp cháu trở nên trưởng thành hơn trong suy nghĩ và nếp sống. Câu thơ “Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – Bếp lửa” tựa như là một tiếng reo vui. Cháu đã phát hiện ra được một điều thật kỳ lạ mà thú vị. Đó chính là bếp lửa qua bao năm vẫn luôn hiện hữu trong trí nhớ, tâm trí của cháu, với những kỷ niệm thiêng liêng nhất.

Ngày hôm nay, khi cháu đã trưởng thành vẫn nhớ về hình ảnh bếp lửa, nhớ về người bà để rồi bộc lộ nỗi niềm chân thành mà sâu sắc. Dù đã lớn lên, cháu có thể tự mình đến nhiều nơi. Cháu được tận mắt chứng kiến rất nhiều sản phẩm của nền văn minh hiện đại với sự say mê, vui vẻ.  Đó là “khói trăm tàu”, “lửa trăm nhà”. Nhưng cháu sẽ vẫn không quên những kỉ niệm về năm tháng tuổi thơ khó khăn nhưng ngập tràn yêu thương, ấm áp bên người bà yêu dấu. Việc sử dụng câu hỏi tu từ: “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?” giúp tác giả gửi gắm một niềm tin dai dẳng ở tương lai phía trước. Cháu hy vọng về một một cuộc sống tốt đẹp và hạnh phúc hơn. Nhưng tình cảm của cháu thì sẽ vẫn không hề thay đổi.

Bài thơ “Bếp lửa” đã gợi lại những kỷ niệm đầy xúc động về người bà cũng như tình cảm bà cháu thiêng liêng. Đồng thời tác giả còn thể hiện sự trân trọng, lòng kính yêu và biết ơn của người cháu đối với bà của mình hay cũng chính là đối với quê hương, gia đình và đất nước.

Câu 2: Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn của tác giả Phan Châu Trinh

Phan Châu Trinh là một chí sĩ yêu nước nổi tiếng trong những năm đầu thế kỉ XX của cách mạng Việt Nam. Không những thế, ông còn được biết tới với tư cách là một nhà thơ. Trong những tác phẩm được ông sáng tác, bài thơ  là một trong những tác phẩm thể hiện được tư thế hiên ngang của những người chí sĩ cách mạng trước chốn lao tù nhưng vẫn lạc quan và quyết không “sờn lòng đổi chí”.

Năm 1908, chí sĩ Phan Châu Trinh bị chính quyền thực dân Pháp khép tội xúi giục nhân dân đứng lên nổi loạn trong phong trào chống thuế tại Trung Kì và bị đày ra Côn Đảo. Mãi đến tháng 6 năm 1910, nhờ có sự can thiệp của Hội nhân quyền (Pháp), ông được trả tự do. Bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” được ông sáng tác khi lao động khổ sai tại nhà tù tại Côn Đảo (Côn Lôn).

Ngay những câu thơ đầu tiên, tác giả đã gợi ra hình ảnh người tù cách mạng với một tư thế hiên ngang:

“Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,|

|Lừng lẫy làm cho lở núi non”

Tác giả đã thể hiện cho người đọc thấy được hoàn cảnh sống nơi Côn Đảo vô cùng khắc nghiệt – Nơi chỉ có núi non hiểm trở và biển cả mênh mông. Nhưng trước hoàn cảnh đó, người tù vẫn giữ được một tư thế vững vàng của đấng nam nhi. Hình ảnh về người chí sĩ cách mạng đầu đội trời, chân đạp đất – Oai phong, lừng lẫy hiện ra thật đẹp đẽ trước mắt người đọc. Họ phải lao động khổ sai với công việc đập đá trong hoàn cảnh sống khắc nghiệt như vậy. Một công việc mà chỉ mới nghe tên thôi chúng ta đã thấy được sự nặng nhọc. Công cụ dùng để lao động là “búa” và “tay”, cùng với những hành động đầy quyết liệt như “đánh tan năm bảy đống”, “đập bể mấy trăm hòn” – Đây quả là một sức mạnh phi thường.

Tiếp theo, hình ảnh người tù cách mạng xuất hiện với ý chí bền bỉ, dẻo dai và kiên cường:

Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,|

|Mưa nắng càng bền dạ sắt son.”

Cụm từ “tháng ngày” chỉ thời gian bị khổ sai, tù đày kéo dài, còn cụm từ “mưa nắng” tượng trưng cho sự gian khổ, cho mọi nhục hình, đày đọa phải trải qua. Trước những thử thách kinh khủng ấy, người chí sĩ vẫn “bảo quản” được chí khí của mình. Cùng với đó, những hình ảnh “thân sành sỏi” và “dạ sắt son” là hai hình ảnh ẩn dụ nói lên ý chí bền vững, lòng son sắt một lòng đối với nước với dân của đấng nam nhi mang chí lớn, của một kẻ chí sĩ chân chính: “Phú quý bất năng dâm,| bần tiện bất năng di,| uy vũ bất năng khuất”. Đó chính là cốt cách của những bậc trượng phu thời xưa. Trong hoàn cảnh gian khổ, ý chí của người tù cách mạng hiện lên càng đẹp đẽ và sáng ngời.

Hai câu cuối cùng vang lên tự như một lời thề với non sông, đất nước:

“Những kẻ vá trời khi lỡ bước,

Gian nan chi kể sự con con”

Ở đây, tác giả đã mượn sự tích “vá trời” của nữ thần Nữ Oa trong thần thoại Trung Quốc để nói tới chí lớn làm cách mạng, cứu dân cứu nước. Đối với những người chí sĩ chân chính, dù có “lỡ bước”, có gặp khó khăn, có chịu nhiều thất bại, dù có phải nếm trải gian nan cay đắng tù đày thì với họ việc “con con” ấy không hề gì, là điều không đáng nói và cũng không đáng để quan tâm. Cùng với đó chính là niềm tin vào sự nghiệp cách mạng trong tương lai của dân tộc.

Như vậy, bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” của nhà tơ Phan Bội Châu đã khắc họa hình tượng về người anh hùng cứu nước ngang tàn, lẫm liệt dù có phải gặp nguy nan nhưng vẫn không “sờn lòng đổi chí”. 

 

Mong rằng với nội dung bài viết Soạn bài Luyện nói Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ chi tiết bao gồm các kiến thức trọng tâm cần nắm vững và các bài văn mẫu của HOCMAI sẽ là tài liệu bổ ích để các em học sinh tham khảo. Chúc các em chuẩn bị tốt nhất bài soạn văn của mình và đạt được kết quả cao trong học tập.