Soạn bài Thuế máu (Ngữ văn 8)

0
1412
soan-bai-thue-mau

Trong bài viết này, HOCMAI muốn gửi tới các em học sinh bài Soạn bài Thuế máu, nằm trong chương trình Soạn văn 8. Thông qua văn bản Thuế máu của Nguyễn Ái Quốc, chúng ta có thể thấy được những khổ đau, hy sinh, mất mát mà ông cha ta phải gánh chịu khi còn bị đô hộ thời phong kiến. Để có thể hiểu rõ hơn về nội dung bài, các em hãy cùng HOCMAI vào bài nhé!

Bài viết tham khảo thêm:

I. Tác giả Thuế máu

– Nguyễn Ái Quốc (sinh năm 1890 và mất năm 1969) là tên gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi đang trong thời kỳ hoạt động trước cách mạng năm 1945.

– Bác Nguyễn Ái Quốc có tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung. Quê Bác ở huyện Nam Đàn thuộc tỉnh Nghệ An.

– Gia đình Bác: Thân phụ của Bác là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc – một nhà Nho yêu nước có một tư tưởng tiến bộ và đã tạo sức ảnh hưởng to lớn đến tư tưởng của Bác. Thân mẫu của Bác chính là bà Hoàng Thị Loan.

– Trong suốt một cuộc đời hoạt động cách mạng lẫy lừng, Người đã sử dụng khá nhiều tên gọi khác nhau như: Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc, Văn Ba,… Cai tên “Nguyễn Ái Quốc” đã được sử dụng lần đầu tiên trong bối cảnh là: Vào ngày 18 tháng 6 năm 1919, thay mặt cho “Hội những người An Nam yêu nước”, Nguyễn Tất Thành đã mang tới cho Hội nghị hòa bình Versailles diễn ra tại Pháp, một bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” – được ký tên là Nguyễn Ái Quốc.

– Không những là một nhà hoạt động cách mạng lỗi lạc, mà Người còn được biết đến với tư cách là một nhà văn lớn, nhà thơ lớn, và được UNESCO công nhận là một Danh nhân văn hóa thế giới.

– Một số tác phẩm nổi bật:

  • Tuyên ngôn độc lập (năm 1945, thể loại văn chính luận)
  • Bản án chế độ thực dân Pháp (năm 1925, thể loại văn chính luận)
  • Đường Kách Mệnh (năm 1927, tập hợp những bài giảng)
  • Con rồng tre (năm 1922, thể loại kịch)
  • Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến năm (năm 1946)
  • Các truyện ngắn: Vi hành (năm 1923), Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu (năm 1925)…
  • Nhật kí trong tù (thể loại thơ, từ năm 1942 đến năm 1943)…

II. Tác phẩm Thuế máu

1. Hoàn cảnh ra đời thuế máu

– Bản án chế độ thực dân Pháp (được viết bằng tiếng Pháp) xuất bản lần đầu tại thành phố Pari vào năm 1925, được xuất bản lần đầu tiên ở Việt Nam vào năm 1946.

– Tác phẩm này tổng bao gồm 12 chương với phần phụ lục “Gửi thanh niên Việt Nam”.

– “Bản án chế độ thực dân Pháp” đã tố cáo cũng như kết án tội ác tày trời của bọn chủ nghĩa thực dân Pháp trên mọi lĩnh vực văn hóa, chính trị, kinh tế… Đồng thời, tác phẩm này cũng đã nói lên được tình cảnh khốn cùng của những người dân nô lệ ở các xứ thuộc địa trên toàn thế giới, từ đó mà có thể vạch ra được đường lối cách mạng đúng đắn để mỗi quốc gia tự giải phóng dân tộc, giành lại độc lập.

– Đoạn trích “Thuế máu” nằm trong chương một của tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”.

2. Bố cục của bài thuế máu

Gồm 3 phần:

– Phần một là: Chiến tranh và người bản xứ.

– Phần hai là: Chế độ lính tình nguyện.

– Phần ba là: Kết quả của sự hy sinh.

3. Thuế máu thuộc thể loại gì

– Văn bản “Thuế máu” thuộc kiểu văn bản nghị luận (kết hợp với yếu tố biểu cảm). Vì người viết chủ yếu sử dụng lý lẽ và dẫn chứng để làm sáng tỏ một vấn đề xã hội nghiêm trọng, đó là: Thuế máu trong chế độ thực dân Pháp.

4. Tóm tắt bài thuế máu

Phần một “Chiến tranh và người bản xứ” nêu ra được sự giả nhân giả nghĩa của bè lũ thực dân Pháp đã bắt dân thuộc địa làm bia đỡ đạn và chết thay cho cái bọn tướng tá thực dân. Phần hai “Chế độ lính tình nguyện” đã tố cáo được cái gọi là tình nguyện của những người dân thuộc địa. Phần ba “Kết quả của sự hy sinh” đã đưa ra kết quả của sự hi sinh, đã vạch trần những lời lẽ lừa bịp, thói giả nhân giả nghĩa của bọn thống trị.

Vào những năm mà trước khi chiến tranh thế giới xảy ra, nhân dân ta đã bị thực dân Pháp coi như là những tên da đen bẩn thỉu, chỉ biết làm nô lệ, kéo xe và ăn đòn. Còn khi chiến tranh xảy ra thì chúng lại bắt dân ta đi làm bia đỡ đạn cho lũ chúng. Kết quả khiến cho dân ta rất nhiều người phải bỏ mạng, bị thương nặng nơi chiến trường. Chúng gọi đây chính là chế độ lính tình nguyên nhưng thực chất thì chúng lại dùng đủ mọi loại mánh khóe và chiêu trò, thậm chí là bắt trói đánh đập ép buộc dân ta đi lính. Khi chiến tranh kết thúc thì chúng lại quay về với cái sự tàn ác như thuở ban đầu, đối xử với dân ta y như súc vật, lột đồ nhân dân ta đã tự bỏ tiền ra mua. Qua tác phẩm này, tác giả muốn rằng nhân dân ở Pháp cũng như nhân dân trên toàn thế giới biết được rõ bộ mặt giả đức giả nhân của bọn thực dân Pháp.

5. Sơ đồ tư duy thuế máu

soan-bai-thue-mau-1

6. Nội dung chính bài Thuế máu

Chính quyền bọn thực dân đã biến người dân nghèo khổ ở những xứ thuộc địa trở thành vật hi sinh thế mạng để phục vụ lợi ích của mình trong những cuộc chiến tranh tàn khốc đầy mất mát. Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần được sự thực ấy bằng những bằng những tư liệu, bằng chứng xác thực cũng như đầy đủ, đa dạng, phong phú bằng ngòi bút trào phúng đầy sắc sảo.

7. Ý nghĩa nhan đề thuế máu

– Nhan đề Thuế máu có một ý nghĩa hết sức đặc biệt và vô cùng sâu sắc, song cũng không kém phần ám ảnh. Đó là một cái tên gợi lên ngay trong đầu thể hiện được những gì mà những người dân thuộc địa phải gánh chịu với nhiều thứ thuế quá đỗi bất công và hết sức vô lý. Thuế máu là thứ thuế vô cùng tàn nhẫn, ghê gớm ghê rợn bậc nhất của chủ nghĩa thực dân thời bấy giờ. Bên cạnh đó, tác giả cũng đã bày tỏ một thái độ mỉa mai, sự phẫn nộ và thái độ châm biếm với tội ác của bọn chính quyền thực dân.

III. Đọc – hiểu văn bản Thuế máu

1. Chiến tranh và người bản xứ

– Xoáy sâu vào sự đối lập giữa hai giai đoạn, thời kỳ: thời kỳ trước chiến tranh và thời kỳ sau chiến tranh.

– Thời kỳ trước chiến tranh: dân bản địa bị chà đạp, coi khinh, bị đối xử không khác gì súc vật, bẩn thỉu, ngu si….

– Khi chiến tranh thế giới vừa mới xảy ra:

  • Nhà cầm quyền lại bắt đầu thái độ ngọt ngào, âu yếm và tâng bốc, dỗ dành người dân thuộc địa lên tận mây xanh.
  • Sự thật tàn khốc lại là: Người dân bản địa phải trở thành công cụ đỡ đạn cho chúng, nộp thuế máu cho bè lũ thực dân, lìa xa gia đình, vợ con, từ biệt quê hương để dấn thân vào chiến trường và dễ dàng bỏ mạng ở nơi đây.

⇒ Bộc lộ được sự sục sôi căm thù với dã tâm đầy hiểm độc, độc ác của cái lũ đế quốc xảo trá, với niềm thương cảm đầy xót xa, đau đớn cho số phận của người dân ở các nước thuộc địa.

2. Chế độ lính tình nguyện

– Bọn đế quốc thì gọi đây là đi lính tình nguyện nhưng thực ra lại là tóc nã, bắt ép săn đuổi đến không còn đường thoái lui.

– Chúng nghĩ ra hàng trăm cách trăm kế để mà bắt nhân dân thuộc địa phải đi lính hoặc để mà xì tiền ra.

– Những người bị đi lính thì bị đối xử một cách thậm tệ, bi nhốt, bị đánh, tra tấn.

⇒ Vạch trần được bộ mặt giả dối, thủ đoạn và những hành động xấu xa, tố cáo được sự thảm khốc tới toàn thế giới.

3. Kết quả của sự hy sinh của thuế máu

Số phận bi thảm của những người lính trong thuộc địa sau khi kết thúc chiến tranh:

  • Tưởng rằng khi đã trở về sẽ được thưởng xứng đáng nhưng họ lại đột ngột bị chính quyền ném đá lại là những người rất bẩn thỉu.
  • Đối với những người thương binh và gia đình sĩ tử, chính quyền phải đền bù thật khéo léo và có lợi bằng cách là cung cấp cho họ một bài bán lẻ thuốc phiện.

IV. Ý nghĩa văn bản thuế máu

1. Ý nghĩa nội dung

Đoạn trích đã vạch trần bộ mặt giả dối của chính quyền thực dân Pháp trong công tác biến người dân thuộc địa thành vật hy sinh cho lợi ích của riêng chúng trong những cuộc chiến tranh phi nghĩa và tàn khốc.

2. Ý nghĩa nghệ thuật

Giọng điệu trào phúng rất đặc sắc, ngôn từ mang đậm màu sắc châm biếm, thủ pháp đối lập – tương phản…

V. Hướng dẫn trả lời câu hỏi bài thuế máu

Câu 1 (trang 91 | Sách giáo khoa Ngữ văn 8, tập 2)

Nhận xét về cách mà tác giả đặt tên chương, đặt tên các phần trong văn bản.

Hướng dẫn trả lời:

Nhận xét về nhan đề và về tên các phần trong văn bản:

– Tên của chương “Thuế máu”: đây là một thứ thuế lạ, đã khơi gợi được sự tò mò của người đọc. Thực chất đây là hình ảnh mang tính biểu tượng, gợi ra được những thứ thuế nặng nề, vô lý bị gông vào cổ của những người dân An Nam. Đó là một thứ thuế mà nhân dân đã phải dùng rất nhiều nước mắt, máu xương và sự hy sinh, tính mạng để đóng góp.

– Tên của mỗi phần trong văn bản là: “Chiến tranh và Người bản xứ” – “Chế độ lính tình nguyện” – “Kết quả của sự hi sinh”: để góp phần gợi lên một quá trình lừa bịp một cách trắng trợn, vắt cạn đến tận xương tủy mỗi người nhân dân của bè lũ thực dân Pháp đối với nhân dân Việt Nam ta.

⇒ Cách tác giả đặt tên nhan đề và tên của các phần trong văn bản đã cho ta thấy được một niềm căm hận, phẫn uất cũng như cả sự bất bình, đau đớn đến tột cùng của một người khi chứng kiến tất cả cảnh nhân dân, đất nước, quê cha đất tổ bị lợi dụng,phỉ nhổ, chà đạp. Đó cũng chính là cơ sở tiền đề cho những lí luận vô cùng sắc bén và lời kết tội đanh thép của Bác về sau này.

Câu 2 (trang 91 | Sách giáo khoa Ngữ văn 8, tập 2)

So sánh thái độ của những quan cai trị thực dân đối với những người dân thuộc địa ở hai thời điểm sau là: trước khi xảy ra cuộc chiến tranh và trong khi chiến tranh đang và đã xảy ra. Số phận vô cùng thảm thương của những người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh phi nghĩa được miêu tả một cách rõ nét như thế nào?

Hướng dẫn trả lời:

– Thái độ cai trị của bè lũ thực dân trước và khi chiến tranh xảy ra là:

  • Trước chiến tranh thì: người dân thuộc địa chỉ đơn giản là những tên da đen bẩn thỉu, được gọi với những tên là “An-nam-mít bẩn thỉu”, giỏi lắm thì cũng chỉ biết kéo xe tay hoặc ăn đòn của tên quan cai trị.
  • Khi chiến tranh nổ ra thì: họ trở thành những người “con yêu”, những người “bạn hiền” của quan phụ mẫu, của quan toàn quyền lớn bé, được trao cho những tên gọi danh xưng cao quý.

– Số phận vô cùng thảm thương của người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh phi nghĩa được miêu tả: Trả giá rất đắt.

  • Phải đột ngột xa lìa vợ con, gia đình, quê hương.
  • Bỏ mạng, phơi thây trên những bãi chiến trường châu Âu: Lấy máu để tưới vòng nguyệt quế, lấy xương mà chạm nên những chiếc gậy của cái ngài chống chế…
  • Hậu phương thì kiệt sức trong các xưởng thuốc súng đầy ghê tởm.
  • Bảy mươi vạn người bản xứ đã phải đặt chân lên đất Pháp, thì tám vạn người  không thể trở về nữa.

Câu 3 (trang 91 | Sách giáo khoa Ngữ văn 8, tập 2)

Nêu rõ được các thủ đoạn, những mánh khóe để bắt lính của những bọn thực dân. Người dân thuộc địa có thực “tình nguyện” hiến dâng xương máu như lời lẽ bịp bợm của bọn cầm quyền không?

Hướng dẫn trả lời:

– Thủ đoạn và mánh khóe để bắt đi lính của bọn thực dân:

  • Tiến hành những cuộc lùng ráp lớn về nhân lực ở trên toàn cõi Đông Dương.
  • Lợi dụng việc bắt lính để mà nhũng lạm – tham nhũng.
  • Bắt những người đang nghèo khổ, có sức khỏe, khỏe mạnh, tráng kiệt và tống tiền những người con nhà giàu.
  • Bọn thực dân dựng lên được màn kịch rêu rao về cái chế độ “tình nguyện” đi lính.

⇒ Bọn thực dân có những thủ đoạn vô cùng tàn ác, chuyên lừa gạt, đầy sự bịp bợm đến trơ trẽn quá đáng của toàn quyền Đông Dương.

– Người dân thuộc địa thì không hề tình nguyện như lời lẽ bọn cầm quyền:

  • Họ tự tìm đủ cách làm cho mình bị nhiễm những căn bệnh hiểm, nặng nhất để không phải đi lính.
  • Họ bị tống giam, xiềng xích, bắt bớ và bị áp tải trực tiếp xuống tàu.

⇒ Thân phận vô cùng hẩm hiu, số phận quá cùng cực của những người dân thuộc địa.

Câu 4 (trang 92 | Sách giáo khoa Ngữ văn 8, tập 2)

Kết quả của những sự hi sinh của người dân thuộc địa trong những cuộc chiến tranh thì như thế nào? Nhận xét về cái cách đối xử của chính quyền thực dân đối với họ sau khi đã bóc lột được hết “thuế máu” của họ?

Hướng dẫn trả lời:

– Kết quả đối với những người dân thuộc địa:

  • Họ được trở về “giống người bẩn thỉu”/“giống người hèn hạ” như trước khi xảy ra cuộc chiến tranh.
  • Họ bị cướp đi hết tài sản, hết của cải, họ bị đánh đập, họ bị đối xử y như súc vật, bị đuổi đi theo một cách trắng trợn.
  • Họ đã phải bỏ tính mạng của mình, nhưng không được hưởng một chút công lý cũng như chính nghĩa nào cả.

⇒ Bóc mẽ, lột trần được bộ mặt tráo trở, đối xử một cách dã man, rất nhẫn tâm, thái độ giả nhân giả nghĩa, lật lọng và khác hẳn với những lời hứa hẹn trước đó.

Câu 5 (trang 92 | Sách giáo khoa Ngữ văn 8, tập 2)

Nhận xét lại về trình tự bố cục các phần trong chương. Phân tích về nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc sảo, và tài tình của tác giả thể hiện qua cái cách xây dựng hình ảnh, qua giọng điệu.

Hướng dẫn trả lời:

– Bố cục của các phần trong chương thì được kết cấu theo: Trình tự thời gian từ trước khi, trong khi, và sau khi cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất.

⇒ Nhằm phơi bày được toàn bộ, tất cả tội ác cũng như sự trơ trẽn, lật lọng của chính quyền thực dân và đã khắc họa được nỗi đau của nhân dân ta.

– Nghệ thuật châm biếm, đả kích rất đỗi sắc sảo của tác giả thể hiện chủ yếu qua:

  • Đưa vào những hình ảnh chân thực nhằm phản ánh chính xác thực trạng, nên có sức tố cáo mạnh mẽ.
  • Ngôn từ của tác giả rất sâu sắc khi châm biếm, đả kích những chính sách và giọng điệu lừa bịp của lũ bọn thực dân: ngôn ngữ sử dụng có sức gợi hình.
  • Dùng những câu hỏi tu từ với mục đích là đập tan những luận điệu xảo trá đến trơ trẽn của phe chính quyền Đông Dương.
  • Sử dụng rất thành công giọng điệu chê bai, giễu nhại, nghệ thuật phản bác.

Câu 6 (trang 92 | Sách giáo khoa Ngữ văn 8, tập 2)

Nhận xét yếu tố biểu cảm có trong tác phẩm được học

Hướng dẫn trả lời:

– Các hình ảnh được xây dựng có mang tính biểu cảm cao. Từ đó có thể toát lên số phận đáng thương của người dân thuộc địa, bộ mặt hãm tài giả nhân giả nghĩa bỉ ổi của chính quyền thực dân.

– Từ hệ thống hình ảnh cũng như giọng điệu trong tác phẩm, Bác đã nhận ra trong mình một lòng căm phẫn kẻ thống trị tàn ác, và niềm xót xa thương cảm cho thân phận người nô lệ đã bị lợi dụng, bị bóc lột “thuế máu”.

Vậy là các em học sinh thân yêu đã cùng với HOCMAI soạn xong bài Soạn bài Thuế máu. Đây là một trong những bài học có giá trị lịch sử vô cùng to lớn mà các em sẽ cần thấu hiểu và khắc ghi. Các em hãy ôn tập bài thật kỹ trước khi tới trường nhé. Các em hãy đừng quên truy cập hoctot.hocmai.vn để tham khảo thêm thật nhiều bài soạn bài bổ ích, đầy đủ, chi tiết nữa nhé!