Truyện Kiều được biết đến là một “kiệt tác văn học” trong thơ ca trung đại Việt Nam. Đây cũng là một trong những tác phẩm để lại nhiều giá trị nhân đạo nhất, được đưa vào chương Ngữ Văn 9. Trong bài viết này, cùng HOCMAI phân tích trích đoạn Mã Giám Sinh mua Kiều để hiểu hơn về bản chất xấu xa của con người trong xã hội cũ. Cùng với đó là sự bấp bênh trong số phận của nhân vật Kiều.
Tham khảo thêm:
Phân tích Phong cách Hồ Chí Minh
Phân tích chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh
I. Thông tin về đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều
1. Vị trí của đoạn trích trong Truyện Kiều
– Đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” thuộc nội dung phần thứ hai “Gia biến và lưu lạc” trong tác phẩm Truyện Kiều. Để hiểu thêm chi tiết dàn ý phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Truyện Kiều, các em học sinh có thể xem thêm tại đây
– Nội dung đoạn trích nói về việc Mã Giám Sinh đến mua Kiều. Đây là khoảng thời gian đánh dấu cho sự bất hạnh đầu tiên ập đến trong cuộc đời của Kiều. Một khởi đầu trầm buồn cho khúc bạc mệnh của cuộc đời Kiều kéo dài suốt mười lăm năm.
Tham khảo thêm các bài phân tích về các đoạn trích của Truyện Kiều trong chương trình ngữ văn 9:
Phân tích Kiều ở Lầu Ngưng Bích
2. Bố cục đoạn trích
– Phần 1: 10 câu thơ đầu: Sự xuất hiện của Mã Giám Sinh
– Phần 2: các câu thơ còn lại: Cảnh mua bán người
II. Thuật lại đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều
Mở đầu cho phần hai, gia đình Kiều bị bán tơ vu oan, cả cha và em trai đều bị bắt. Để có thể chuộc lại cha và em, Kiều buộc phải bán mình.
Vốn là tiểu thư con nhà khuê các, Kiều rời nhà ra đi bán mình chuộc cha với tâm niệm, xót xa và đầy tủi hổ. Kiều được bà mối giới thiệu với Mã Giám Sinh – một kẻ buôn người khét tiếng. Tuổi hắn ta trạc ngoài tứ tuần, quê ở huyện Lâm Thanh, vẻ ngoài bảnh bao, đến mày râu cũng được chải chuốt cẩn thận đến khó chịu. Theo sau hắn luôn là một lũ đầy tớ lao xao, ồn ào. Thái độ kênh kiệu của hắn thể hiện ngay khi bước vào lầu trang, chẳng quan tâm đến ai, hắn ngồi tót lên ghế một cách sỗ sàng.
Đối với hắn, Kiều cho dù là một tiểu thư cao quý đến mấy thì khi đến lầu trang, cũng chỉ là một món hàng không hơn không kém. Hắn xem xét ngoại hình của Kiều, ép nàng phải thể hiện đủ thứ từ tài từ đánh đàn đến làm thơ. Sau khi xem xét kỹ lưỡng mới “cò kè” mặc cả, “ngã giá”. Phong thái hệt như cách các thương gia đang “trả giá” cho một món “hàng” đắt tiền vậy.
Tại lầu trang, trong khi mụ mối thì vén tóc, cầm tay, để giới thiệu nàng cho khách xem mặt, thì Kiều lại tỏ ra buồn thảm vô cùng. Nàng tiếc thay thân phận rẻ mạt của người phụ nữ trong xã hội mà đồng tiền nắm quyền kiểm soát. Nét buồn trên khuôn mặt nàng tựa cúc điệu gầy như mai. Nhưng nàng không thể làm gì khác, trong lòng nàng giờ đây chỉ còn nỗi tê tái khi nghĩ về cảnh gia đình chia ly, cha em bị bắt. Đây là bước ngoặt đầu tiên, đánh dấu sự thay đổi và dự đoán cho một cuộc đời mười lăm năm lưu lạc sắp diễn ra của Kiều.
III. Phân tích Mã Giám Sinh mua Kiều
1. Phân tích nhân vật Mã Giám Sinh
– Tình huống: tin tức Kiều – một người con gái nổi tiếng tài sắc vẹn toàn – muốn bán mình chuộc cha đã gây xôn xao cả một vùng rộng lớn. Mã Giám Sinh biết được tin, đã nhờ người mai mối dẫn đến nhà để cưới nàng làm vợ lẽ.
– Thái độ của Nguyễn Du với hình tượng nhân vật Mã Giám Sinh: khác với bút pháp ước lệ mà tác giả sử dụng để miêu tả những nhân vật chính diện như chị em Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải. Đối với những nhân vật phản diện như Tú Bà, Mã Giám Sinh, Nguyễn Du chọn sử dụng bút pháp tả thực. Bằng cách sử dụng từ biểu cảm hợp lí, thái độ khinh bỉ, căm ghét của tác giả đối với nhân vật Mã Giám Sinh đã được thể hiện rõ nét và hết sức sinh động.
1.1. Mã Giám Sinh là một kẻ xấu xa, vô học
Một kẻ có lai lịch bất minh
– Tên gọi Mã Giám Sinh chỉ mang tính chung chung, không rõ ràng: vốn “Giám Sinh” không phải là một cái tên. Đó là chức danh dùng để chỉ người học trò Nho giáo thời xưa. Và chức danh này có thể mua được bằng tiền. Vì vậy, cái tên gần như không nói lên được điều gì về con người hắn.
– Lai lịch mập mờ, quê quán không rõ ràng: tác giả đã khéo léo vạch trần sự giả dối của Mã Giám Sinh trong đoạn thơ giới thiệu hắn là “viễn khách”, đến để “vấn danh”:
“Gần miền có một mụ nào
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh”
Nhưng lại để cho hắn tự nhận:
“Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”
– Trong “Truyện Kiều”, “viễn khách” là từ được Nguyễn Du sử dụng với ý chỉ những kẻ “Làng chơi đã trở về già hết duyên”, hay chỉ là một kẻ buôn thịt bán người “Quen mối lại kiếm ăn miền nguyệt hoa”.
– Hắn tự xưng quê mình ở Lâm Tri Sinh viên trường Quốc Tử Giám, “huyện Lâm Thanh cũng gần” với giọng điệu trang trọng, kiểu cách quý tộc, khoe mẽ.
– Lời giới thiệu của Mã Giám Sinh có sự mâu thuẫn với lời giới thiệu của mụ mối thể hiện qua hai từ “viễn khách” và “cũng gần”. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn trong 1 câu thơ là do Mã Giám Sinh đã dối trá về quê quán của mình. Thực chất quê hắn ở Lâm Trí chứ không phải Lâm Thanh. Hắn cố tình chọn “huyện Lâm Thanh” vì nơi đó rộng bao la, chẳng ai tìm ra được lai lịch, gia thế của hắn.
⇒ Thông qua những chi tiết tiêu biểu, chọn lọc, tác giả đã thể hiện được rõ nét thần thái và bản tính ác của nhân vật. Có thể thấy ngay từ những thông tin cơ bản nhất về một con người như tên tuổi, quê quán của Mã Giám Sinh đều không tường minh. Đây là những dấu hiệu của một con người không đáng tin cậy.
Một kẻ ăn nói xấc xược, vô văn hóa
Bản chất vô học của Mã Giám Sinh tiếp tục, được Nguyễn Du vạch trần một cách khéo léo qua khẩu ngữ đối đáp của hắn:
“Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh”
Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”
– Sử dụng nhịp thơ ngắn, chia nhỏ theo nhịp 2/1/3 và 2/1/3/2, kết hợp biện pháp nghệ thuật điệp cấu trúc “Hỏi… rằng…”, tác giả đã gợi lại một cách hết sức chân thực cuộc đối thoại và cách thức trả lời hết sức cộc lốc của Mã Giám Sinh
– Hai chữ “rằng” nối tiếp nhau trong câu thơ đã thể hiện một thái độ kiêu kỳ, nhìn thiên hạ bằng con mắt coi thường của Mã Giám Sinh. Khẩu ngữ đối đáp của hắn bộc lộ rõ sự hợm hĩnh, thô lậu và khiếm nhã, đối lập hoàn toàn với lời giới thiệu ban đầu của một kẻ có học.
– Câu trả lời của Mã Giám Sinh thể hiện rõ sự bất lịch sự: đã không thưa gửi còn nói trống không, bộc lộ rõ sự vô văn hóa trong giao tiếp với người bề trên.
⇒ Sử dụng biện pháp nghệ thuật điệp từ, nhịp thơ ngắt nghỉ hợp lí, tác giả đã giúp người đọc hiểu được phần nào về bản chất con người hắn. Vốn chỉ là một kẻ buôn người “đội lốt” một chàng “giám sinh”, thông qua vẻ nho nhã, thanh lịch giả tạo.
Một kẻ có ngoại hình bảnh bao, chải chuốt
Qua miêu tả, Nguyễn Du đã khắc họa sinh động bức chân dung truyền thần của tên lái buôn Mã Giám Sinh:
“Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.”
Hai câu thơ có sự tương phản về cách sử dụng từ giúp tạo ra hai sắc thái đối lập và ý nghĩa về hình tượng Mã Giám Sinh:
– Câu lục tác giả hoàn toàn sử dụng từ Hán Việt góp phần tạo ra sắc thái trang trọng cho câu thơ
– Câu bát tác giả sử dụng hoàn toàn là từ thuần Việt có tác dụng tạo ra cảm giác rất bình dị, gần gũi với người đọc.
– Sự đối lập được tác giả chủ ý đưa vào nhằm tô đậm sự tương phản giữa độ tuổi “trạc ngoài bốn mươi” của Mã Giám Sinh và vẻ bên ngoài không phù hợp của hắn.
Sử dụng thủ pháp nâng và hạ của nghệ thuật trào phúng:
– Dùng giọng thơ trang trọng để nói về độ tuổi, chính là nâng. Mục đích là để bóc trần vẻ ngoài lố lăng của một kẻ giả tạo
– Dùng giọng thơ mang tính đời thường khi miêu tả chi tiết, chính là hạ. Mục đích là để làm nổi bật sự không phù hợp, cái lố bịch của ngoại hình mà hắn đang cố thể hiện
Tác giả bóc trần vẻ ngoài bảnh bao của Mã Giám Sinh thực chất chỉ là cố làm cho trẻ hơn tuổi:
– Trong câu thơ “Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao”: tác giả dùng “mày râu” để miêu tả vì đây được coi là chuẩn mực thẩm mỹ của người xưa. Khi đánh giá hay nhận xét về một người đàn ông, người xưa sẽ nhìn vào đặc điểm của phần mày và râu đầu tiên.
– Giải thích thêm về việc lựa chọn hình ảnh “mày râu”: không phải ngẫu nhiên mà người đàn ông thời xưa được gọi là “đấng mày râu”, hay “tu mi nam tử”. Trong ca dao từng có câu: “Đàn ông không có râu bất nghì”. Vì theo chuẩn mực cái đẹp của người xưa, phần mày râu của người đàn ông chính là đặc điểm thể hiện cho nhân, nghĩa. Đồng thời là dấu hiệu để nhận biết bậc đại trượng phu.
– Sử dụng từ “nhẵn nhụi” để miêu tả “may râu” đã gợi cảm giác về một sự trơ trẽn, phẳng lì.
⇒ Ở đây Nguyễn Du đã thông qua hình ảnh “mày râu” để ám chỉ Mã Giám Sinh đối lập hoàn toàn với tất cả chuẩn mực của một đấng trượng phu. Đặc điểm “mày râu nhẵn nhụi” chính là biểu hiện cho dung mạo của kẻ tiểu nhân, không đàng hoàng.
– “Áo quần bảnh bao” thể hiện sự trưng diện không cần thiết và thiếu tự nhiên.
– Tính từ “bảnh bao” được tác giả sử dụng hết sức khéo léo. Bởi lẽ “bảnh bao” vốn là từ được dùng để khen áo quần trẻ em, ít khi dùng cho người lớn. Dường như tác giả đang thể hiện thái độ chế giễu, mỉa mai vẻ ngoài lố lăng của tên buôn người họ Mã.
⇒ Qua việc sử dụng từ ngữ linh hoạt, Nguyễn Du đã thành công trong việc đả kích một cách sâu cay ngoại hình của nhân vật Mã Giám Sinh. Đồng thời mỉa mai hình ảnh một người đàn ông đã “trạc ngoại tứ tuần” (sắp lên lão) vẫn cố tỉa tót công phu, cố tô vẽ cho mình ra dáng trẻ trung như trai mới lớn. Thật nực cười.
- Lộ trình toàn diện - NẮM CHẮC NỀN TẢNG - TỔNG ÔN TOÀN DIỆN - LUYỆN ĐỀ CHUYÊN SÂU
- ĐA DẠNG HÌNH THỨC HỌC - PHÙ HỢP VỚI MỌI NHU CẦU
- TOP THẦY CÔ DANH TIẾNG, GIÀU KINH NGHIỆM
- DỊCH VỤ HỖ TRỢ HỌC TẬP ĐÔNG HÀNH TRONG SUÔT QUÁ TRÌNH HỌC TẬP
Hành động vô phép, bất lịch sự
Thông qua hành động của Mã Giám Sinh, ta có thể nhận ra bản chất vô lại, lố lăng của của hắn:
“Trước thầy sau tớ lao xao
Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang,
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”
– Từ láy “lao xao” sử dụng trong câu thơ “Trước thầy sau tớ lao xao” giúp tạo cảm giác của một không gian nhốn nháo, mất trật tự, vô kỷ luật mà Mã Giám Sinh cùng đồng bọn của hắn tạo ra. Sự nhộn nhạo này là không phù hợp với sự trang nghiêm, lịch sự cần có của một buổi lễ vấn danh. Từ đó cho thấy cung cách đi hỏi vợ lạ đời của Mã Giám Sinh.
Qua câu thơ: “Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”, tác giả đã cho thấy hành động thô lỗ, sỗ sàng của một kẻ vô học họ Mã.
– Từ “Ghế trên” được sử dụng mang nghĩa một vị trí trang trọng, thường dành cho các bậc cao niên, huynh trưởng trong gia đình.
– Kẻ đi hỏi vợ được coi như bậc con cái, là bậc dưới, phải giữ gìn phép tắc và lễ nghi khi hỏi cưới. Ấy vậy mà Mã Giám Sinh lại vô lễ ngồi thẳng vào “ghế trên” mà không kiêng nể một ai.
– Sử dụng phó từ “tót” , tác giả đã đặc tả tư thế ngồi của Mã Giám Sinh. Đó là dáng ngồi cộc cằn, xấc xược và ngang ngược.
– Tính từ “sỗ sàng” thể hiện suy nghĩ của tác giả trước hành động của Mã Giám Sinh. Đối với Nguyễn Du, đây là một hành động thiếu lịch sự, vô phép tắc của một kẻ vô học. Cùng với đó còn là thái độ hợm hĩnh của, khinh người của một kẻ cậy tiền.
⇒ Mã Giám Sinh là một kẻ vô học, thiếu văn hóa. Hắn coi thường phẩm giá con người và tự cho mình là bên trên trong giới “kiếm ăn miền nguyệt hoa”, kiếm tiền nhờ buôn bán người.
1.2. Mã Giám Sinh là hình tượng điển hình của một kẻ buôn người
Không giống với cái tên hắn tự xưng là học trò của Quốc Tử Giám, Mã Giám Sinh mang đậm nét đặc trưng của hạng con buôn hèn mọn. Hắn sống bám vào các kĩ viện. Tiền của hắn có được là từ việc lừa các cô gái lương thiện vào chốn thanh lâu.
“Rằng: Mua ngọc đến Lam Kiều
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?
Mối rằng: Giá đáng nghìn vàng
Dớp nhà nhờ lượng người thương dám nài
Cò kè bớt một thêm hai
Giờ lâu ngã giá vâng ngoài bốn trăm.”
Biểu hiện của tâm lý con buôn trong Mã Giám Sinh
Hành động và lời nói của hắn có sự trái ngược hoàn toàn:
– Sử dụng một loạt các từ “cò kè, thêm bớt, ngã giá…”, tác giả đã chứng minh Mã Giám Sinh là một con buôn sành sỏi, một kẻ buôn người lọc lõi. Miệng thì tỏ ra là hỏi cưới Kiều về làm lẽ nhưng hành động thì như đang mặc cả, trả giá cho một món hàng quý.
⇒ Mã Giám Sinh dù ăn mặc chải chuốt, nói những lời trang trọng, hoa mỹ đến mấy cũng không thể che giấu nổi bản chất xấu xa, đê tiện, giả dối của một kẻ buôn người
Chi tiết thể hiện giọng điệu của con buôn
Ban đầu, Mã Giám Sinh học đòi nói theo những lời lẽ rất hoa mỹ, bỏng bảy:
“Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều”
Sinh nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”
Tuy nhiên hai từ “mua” và “bao nhiêu” đã tố cáo con người hắn vẫn mang thói quen của một con buôn. Những lời lẽ hoa mỹ ấy thực chất chỉ là cách hắn hỏi giá cho một “món hàng” mà hắn muốn mua mà thôi.
Hành động mang đặc trưng con buôn
Trả giá mà mặc cả là hành động đặc trưng nhất thể hiện Mã Giám Sinh là một con buôn chính hiệu:
“Cò kè bớt một thêm hai
Giờ lâu ngã giá vâng ngoài bốn trăm”
– Từ láy “cò kè” đã thể hiện bản tính bần tiện, ky bo, ích kỷ và ham muốn chuộc lợi của Mã Giám Sinh.
– Bằng nhịp thơ ngắn: 2/2/2, tác giả đã tạo cảm giác kéo dài, mệt mỏi và chán chường trong cuộc ngã giá của Mã Giám Sinh. Đồng thời nhấn mạnh vào những nỗi tủi nhục của Kiều khi nhân phẩm bị chà đạp, giá trị bị xúc phạm và đem bán như một món hàng.
⇒ Với bút tả thực, kết hợp giữa giọng kể và tả, Nguyễn Du đã khéo léo bóc trần bản chất vô lại của Mã Giám Sinh. Từ đó, hình ảnh tên buôn họ Mã đã hiện lên với vẻ ngoài chải chuốt, ăn nói giả tạo, cử chỉ vô văn hóa và hành động thì vô lương. Đó là đặc điểm một kẻ buôn người đê tiện và tàn ác điển hình trong xã hội phong kiến xưa.
2. Phân tích hình ảnh Thúy Kiều
– Trong toàn bộ cuộc mua bán, Nguyễn Du đã để cho Kiều im lặng. Bởi lẽ nỗi đau đớn, thẹn thùng, xót xa tủi hổ ê chề của Kiều đã lên đến đỉnh điểm. Im lặng có thể hiểu là nàng “không còn lời nào để nói” về số phận của chính mình.
– Từ một tiểu thư của một gia đình phong lưu, “Kín cổng cao tường”, không thèm để ý đến “ong bướm” xung quanh mà nay đã biến thành một món hàng. Dưới bàn tay bẩn thỉu của mụ mối và Mã Giám Sinh, Kiều mất đi quyền sống của một con người, làm sao không khỏi tủi nhục cho được.
– Sử dụng một loạt hình ảnh ẩn dụ, ước lệ, tượng trưng và tả cảnh ngụ tình, tác giả đã gián tiếp diễn tả tâm trạng xót xa, tủi hổ của Kiều. Khác với nguyên bản “Kim Vân Kiều truyện”, sự im lặng của Kiều đã phần nào chứng tỏ năng lực sáng tạo và khả năng thấu hiểu tâm lý nhân vật sâu sắc của Nguyễn Du.
– Qua một loạt các hình ảnh, từ ngữ miêu tả dáng vẻ của Kiều như “Ngại ngùng dợn gió e sương… mặt dày”, “nét buồn…như mai” tác giả đã tạo ra sự đồng cảm giữa người đọc với nhân vật.
⇒ Đoạn trích không có bất kỳ một lời nhận xét, đánh giá trực tiếp nào. Tuy nhiên, qua đó, ta vẫn cảm nhận được sự cảm thông, xót xa mà Nguyễn Du dành cho người con gái đẹp tài hoa nhưng phải chịu kiếp chà đạp, biến thành một món hàng trong xã hội thối nát lúc bấy giờ.
IV. Sơ đồ tư duy Mã Giám Sinh mua Kiều
V. Tổng kết
Giá trị nội dung của tác phẩm
Đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” là lời tố cáo, lên án và khinh bỉ những kẻ buôn người nắm quyền trong xã hội thối nát xưa. Chúng là những kẻ bất lương, chỉ biết kiếm lợi ích trên thân xác của người phụ nữ. Qua đoạn trích, tác giả Nguyễn Du cũng bày tỏ thái độ lên án mạnh mẽ những thế lực chà đạp lên tài sắc và nhân phẩm người phụ nữ. Đồng thời bày tỏ sự cảm thông, sâu sắc với số phận con người khi phải sống trong xã hội nơi đồng tiền có sức mạnh tối thượng.
Giá trị nghệ thuật của tác phẩm
– Khắc họa thành công hình tượng nhân vật chính diện và phản diện
– Thấu hiểu sâu sắc tâm lý và nội tâm nhân vật
– Sử dụng bút pháp hiện thực và những tương phản, nghịch lý để xây dựng bối cảnh sinh động cho đoạn trích
– Sử dụng các tương phản để khai thác mâu thuẫn trong nhân vật, giúp bộc lộ bản chất giả trá, xấu xa của nhân vật Mã Giám Sinh
Trên đây là dàn ý phân tích Mã Giám Sinh mua Kiều thuộc chương trình Ngữ Văn 9. Ngoài tác phẩm trên, HOCMAI cũng có các bài phân tích các tác phẩm khác tại tài liệu tham khảo Soạn văn 9. Hy vọng qua bài phân tích trên, các bạn học sinh đã có thể hiểu hơn về tính cách các nhân vật trong đoạn trích. Từ đó tăng khả năng hiểu bài trên lớp cũng như ôn tập thi học kỳ hay trong quá trình ôn tập các tác phẩm ôn thi vào 10 hiệu quả!