Soạn bài Kiều ở lầu Ngưng Bích chi tiết (Trích Truyện Kiều)

0
5988
soan-bai-kieu-o-lau-ngung-bich

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích trích trong truyện thơ của Nguyễn Du là một thành công của tác giả khi miêu tả nội tâm nhân vật Thúy Kiều. Người đọc thấy được nỗi cô đơn, buồn tủi của Kiều cũng như tấm lòng hiếu thảo thủy chung của người con gái tài sắc này. Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng  Bích nằm trong sách ngữ văn 9, cùng họcmai.vn tham khảo soạn bài Kiều ở lầu Ngưng Bích dưới đây. 

 

Tham khảo thêm:

Phân tích Kiều ở Lầu Ngưng Bích

Soạn bài cảnh ngày xuân

 

Soạn bài Kiều ở lầu Ngưng Bích ( Trích Truyện Kiều): Tìm hiểu chung 

1. Tìm hiểu về tác giả Nguyễn Du 

– Nguyễn Du (1765-1820) sinh tại kinh thành Thăng Long, quê gốc ở xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

– Nguyễn Du sinh ra trong gia đình có truyền thống khoa bảng và văn chương. Cha của Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm làm quan dưới triều nhà Lê đến chức Tham tụng ( tương đương với tể tướng). Mẹ của Nguyễn Du là bà Trần Thị Tần quê ở Bắc Ninh. Gia đình của Nguyễn Du là đại quý tộc và rất có thế lực vào thời điểm đó. 

– Nguyễn Du sống trong nhung lụa đến năm 10 tuổi thì mồ côi cha, 13 tuổi mồ côi mẹ. Ông phải đến sống nhờ nhà người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản. Anh trai của Nguyễn Du cũng làm quan dưới thời Lê – Trịnh. 

– Nhiều biến cố xảy ra trong suốt thời niên thiếu cho đến khi trưởng thành đã tôi luyện Nguyễn Du thành một người có chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc, nhìn thấu nỗi khổ của người dân trong xã hội phong kiến đầy biến động. 

– Chính những yếu tố thời đại, gia đình và trải nghiệm cuộc sống của Nguyễn Du đã ảnh hưởng rất nhiều đến thơ văn của ông sau này. Với trình độ học vấn cao, Nguyễn Du am hiểu rất nhiều về văn chương Trung Quốc cũng như bản sắc văn hóa dân tộc. 

– Sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Du vô cùng đồ sộ với nhiều tác phẩm được viết bằng cả chữ Hán và chữ Nôm: 

+  Ba tập thơ chữ Hán bao gồm 243 bài thơ: Thanh Hiên thi tập, Bắc hành tạp lục, Nam trung tạp ngâm. 

+ Hai tác phẩm lớn bằng chữ Nôm: Truyện Kiều ( Đoạn trường tân thanh) và Văn chiêu hồn. 

-Truyện Kiều là tác phẩm chữ Nôm nổi tiếng của Nguyễn Du được sáng tác dựa trên Kim Vân Kiều truyện của nhà văn Thanh Tâm Tài Nhân Trung Quốc. 

2. Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích

2.1 Vị trí đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích

– Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích nằm ở phần hai gia biến và lưu lạc của Truyện Kiều của Nguyễn Du. 

Tham khảo thêm: Soạn bài Truyện Kiều

-Kiều có ý định tự sát sau khi biết mình bị lừa bán vào lầu xanh. Lúc đó Tú Bà hứa hẹn sẽ gả Kiều vào nơi tử tế. Sau đó, Tú Bà giam lỏng Kiều trong lầu Ngưng Bích để tiếp tục nghĩ kế sách đối phó với nàng. 

2.2 Bố cục đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích

-Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích có thể chia bố cục thành 3 phần: 

  • Phần 1: Từ đầu đến đoạn thơ “ nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”: Nguyễn Du miêu tả cảnh vật tại lầu Ngưng Bích – nơi Kiều bị giam lỏng
  • Phần 2: Tiếp theo đến đoạn thơ: “ Có khi gốc tử đã vừa người ôm” : Nỗi nhớ của Kiều dành cho cha mẹ và Kim Trọng – người thương đã thề nguyện cùng nàng. 
  • Phần 3: Đoạn thơ còn lại: Kiều lo lắng trước cuộc sống tương lai mù mịt 

 

Soạn bài Kiều ở lầu Ngưng Bích: Phần đọc hiểu văn bản

Câu 1 trang 95 SGK Ngữ Văn 9 tập 1

Miêu tả cảnh vật lầu Ngưng Bích – nơi Kiều bị giam lỏng 

Trong sáu câu thơ đầu, Nguyễn Du đã miêu tả cảnh vật lầu Ngưng Bích nơi Thúy Kiều đang bị Tú Bà giam lỏng. Ở đây, tác giả đã miêu tả cảnh vật lầu Ngưng Bích theo điểm nhìn từ trên cao xuống: 

– Không gian rộng lớn, bát ngát: Tác giả sử dụng các cụm từ như “non xa”, “trăng gần”, “bát ngát” để miêu tả không gian ở lầu Ngưng Bích mở rộng theo chiều cao và chiều xa. Hình ảnh lầu Ngưng Bích hiện ra theo tầm nhìn của Thúy Kiều là một lầu các chênh vênh, đơn độc giữa không gian

-Sự trống trải, hoang vắng: Để miêu tả sự trống trải này, Nguyễn Du đã sử dụng các cụm từ như “cát vàng”, “ bụi hồng”, “cồn nọ”, “dặm kia”. Các cụm từ đó không hề có sự liên kết nào khiến cho cảnh vật từ lầu Ngưng Bích nhìn ra dường như không có sự sống, cảnh vật ngổn ngang, tiêu điều.

Bên cạnh cảm nhận về không gian, Nguyễn Du còn miêu cả cảm nhận về thời gian khi Kiều bị giam lỏng tại lầu Ngưng Bích: 

-Sự quay vòng, tuần hoàn của thời gian được thể hiện qua các cụm từ “ trăng”, “ mây sớm đèn khuya”. Khi miêu tả sự tuần hoàn lặp đi lặp lại của thời gian kết hợp với khung cảnh ảm đạm, tiêu điều đã gợi thêm tình cảnh cô đơn và buồn bã của Kiều  khi bị giam tại đây. 

-”khóa xuân”: Cụm từ này đã diễn tả hết sự cô đơn đến tận cùng của Kiều khi bị giam trong lầu Ngưng Bích cũng như giam hãm tuổi xuân, tuổi trẻ của nàng. 

=> Với cách miêu tả không gian và thời gian tại lầu Ngưng Bích, Nguyễn Du đã khéo léo vẽ lên bức tranh tâm trạng của Thúy Kiều. Đó là tâm trạng buồn tủi, cô đơn hổ thẹn khi bị giam cầm và không  biết tương lai của mình sẽ đi về đâu. 

 

Câu 2 trang 95 SGK Ngữ Văn 9 tập 1

Nỗi thương nhớ của Kiều dành cho cha mẹ và Kim Trọng trong tám câu thơ tiếp theo

Trong cảnh ngộ bị giam cầm của mình, Thúy Kiều đã nhớ đến Kim Trọng rồi nhớ đến cha mẹ. Trình tự đó tưởng vô lý nhưng lại rất hợp lý bởi lí do sau: 

-Trước khi bị bán đi, Kiều đã được gặp mặt cha mẹ. Và hành động bán mình chuộc cha của Kiều cũng đã phần nào trả lại đạo hiếu cho cha mẹ của mình. 

– Kiều không được gặp Kim Trọng khi bị bán và nỗi day dứt, hổ thẹn của Kiều khi không giữ được lời thề lứa đôi mà cả hai đã trao cho nhau. 

-Kiều nhớ đến Kim Trọng trước rồi mới tới cha mẹ cũng hoàn toàn phù hợp với diễn biến tâm lý của Kiều khi bị lừa bán, ép tiếp khách và nỗi đau đơn về “ tấm son gột rửa bao giờ cho phai” 

1. Nghệ thuật dùng từ ngữ của Nguyễn Du khi miêu tả nỗi nhớ người thương và gia đình của Thúy Kiều:

– Nỗi nhớ Kim Trọng: 

  • “ người dưới nguyệt chén đồng” : Miêu tả lại cảnh hai người thề nguyền hẹn ước. 
  • “ rày trông mai chờ”: Sự lo lắng của Kiều không biết Kim Trọng ở phương xa đã biết tin Kiều bán mình chuộc cha hay chưa, hay vẫn ngày đêm mong chờ, nhớ mong. 
  • Sử dụng thành ngữ “bên trời góc bể” cùng từ láy “bơ vơ” : Miêu tả sự xa cách của Kim Trọng và Thúy Kiều, sự cô đơn một mình của Kiều nhớ thương Kim Trọng. 
  • “ tấm son”: Cụm từ chỉ tấm lòng son sắt, thủy chung của Kiều dành cho Kim Trọng đã bị vấy bẩn, không biết đến bao giờ mới “ gột rửa cho phai” 

=> Kiều ngay khi bị lừa bán nhưng vẫn nhớ nhung về Kim Trọng ở phương xa, vẫn giữ tấm lòng chung thủy và son sắt dành cho chàng cho dù tấm thân đã bị vấy bẩn. 

-Nỗi nhớ cha mẹ: 

  • Nguyễn Du sử dụng cụm từ “ xót thương tựa cửa ôm mai” để miêu tả sự đau đớn và xót xa của Thúy Kiều. Nàng không rõ bây giờ cha mẹ có cảm thấy lo lắng cho mình hay không. 
  • “ Quạt nồng ấp lạnh” : Kiều đã bị bán đi xa, nàng không thể ở bên cạnh cha mẹ, lo lắng cho cha mẹ, mùa hè thì quạt cho cha mẹ ngủ, mùa đông thì nằm trước cho cho giường ấm lên, khi cha mẹ đi ngủ không bị lanh. 
  • “ cách mấy nắng mưa” “ gốc tử người ôm”: Chỉ sự đau xót của Kiều khi cha mẹ lớn tuổi nhưng nàng lại không thể ở bên cạnh chăm sóc, tẫn hiếu.

=> Chỉ với mấy câu thơ cùng những từ ngữ được chọn lọc, Nguyễn Du đã cho chúng ta thấy được sự hiếu thảo của Kiều cũng như sạu đau xót khi không được ở gần cha mẹ khi tuổi già đang đến dần. 

2. Qua đoạn trích miêu tả sự nhớ thương của Kiều dành cho cha mẹ và Kim Trọng, chúng ta đã thấy được tấm lòng hiếu thảo, vị tha và sắt son của nàng. Trong khi tình cảnh của Kiều đang bị giam cầm không rõ ngày mai sẽ ra sao, Kiều lại luôn lo lắng về gia đình và Kim Trọng. Phải là một người con gái có tấm lòng cao đẹp và luôn nghĩ cho người khác như Kiều mới làm được những điều như vậy

 

Câu 3 trang 95 SGK Ngữ Văn 9 tập 1

a. Tám câu thơ cuối bài, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình vô cùng đặc sắc, miêu tả cảnh vật nhưng cũng là miêu tả tâm trạng của con người, ở đây là tâm trạng của Thúy Kiều. Từng sắc thái của thiên nhiên miêu tả lại từng trạng thái tình cảm của Thúy Kiều: 

– Tình cảm nhớ thương cha mẹ, quê hương được thể hiện qua hai câu thơ:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm

      Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa” 

=> Hình ảnh con thuyền khiến Kiều nhớ về quê hương, gia đình, mong muốn được đoàn tụ nhưng không thể được. 

– Tỉnh cảm nhớ thương Kim Trọng và mối tình dang dở của mình:

“Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu” 

=> Hình ảnh ông hoa trôi theo dòng nước, không biết sẽ đi về đâu giống như cuộc đời của Kiều bị số phận vùi dập. 

-Tình cảnh éo le của Kiều khi bị giam giữ tại lầu Ngưng Bích:

“ Buồn trông nội cỏ rầu rầu

      Chân mây mặt đất một màu xanh xanh” 

“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

      Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi” 

=> Cảnh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích dường như cũng nhuốm màu tâm trạng của Kiều. Khi mà mày xanh cây cỏ không còn là màu xanh của hy vọng nữa, đó là màu xanh của sự tuyệt vọng, chán chường. Hình ảnh tiếng sóng như xuất hiện bên tai như đang dự báo cho một tương lai bất ổn, sóng gió cuộc đời sẽ bủa vây cuộc đời của Kiều. 

b. Trong tám câu thơ cuối, Nguyễn Du đã sử dụng điệp ngữ “ buồn trông” đến bốn lần giống như những ngọn sóng trùng điệp đang dần bủa vây lấy tâm trạng của Thúy Kiều. Cảnh sắc từ xa đến gần giống như nội tâm của Kiều đang dần dần thu hẹp lại càng làm rõ hơn sự cô đơn cùng cực, sự đau đớn và những lo lắng sóng gió của cuộc đời.

 

Soạn bài Kiều ở lầu Ngưng Bích: Hướng dẫn luyện tập 

– Tả cảnh ngụ tình là thủ pháp nghệ thuật lấy hình ảnh của thiên nhiên để miêu tả tâm trạng của con người. Bức tranh thiên nhiên khi đó không chỉ đơn thuần là một bức tranh phong cảnh nữa mà còn là bức tranh tâm trạng được tác giả cài cắm vào trong đó. Khi đó cảnh là công cụ, phương tiện để miêu tả còn tâm trạng mới là mục đích chính để miêu tả

– Tám câu thơ cuối là bức tranh thiên nhiên nhưng cũng là bức tranh tâm trạng của Thúy Kiều được Nguyễn Du miêu tả từ xa đến gần, từ màu sắc mờ nhạt đến rõ nét đậm dần, tữ tĩnh đến động để gợi tả hết nỗi buồn man mác, sự cô độc và sợ hãi trong lòng Thúy Kiều. Từng hình ảnh “chiếc thuyền”  gợi nhớ quê hương cho đến hình ảnh “bông hoa”  bị làn nước cuốn đi giống như cuộc đời  Kiều không biết sẽ đi về đâu và âm thanh “ tiếng sóng”  là dấu hiệu cho một cuộc đời bất ổn, sóng gió của Thúy Kiều. Biện pháp điệp từ “ buồn trông” lại càng làm tâm trạng của Kiều tăng dần theo từng cung bậc cảm xúc. Có thể nói, bức tranh thiên nhiên và tâm trạng của Thúy Kiều được Nguyễn Du miêu tả bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình vô cùng đặc sắc và độc đáo. 

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là bức tranh miêu tả thiên nhiên và tâm trạng vô cùng độc đáo của Nguyễn Du. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đã đạt đến đỉnh cao khi miêu tả nhiều cung bậc tâm trạng của Thúy Kiều. Hy vọng gợi ý Soạn bài Kiều ở lầu Ngưng Bích sẽ giúp các bạn học sinh nắm bắt được những nội dung chính trong bài học của mình trên lớp.